Main.CặnBãKýức2 History

Show minor edits - Show changes to markup - Cancel

Added lines 1-2507:

NHƯ SANH

NHƯ HUYỄN sưu tập

Lời Giới Thiệu

Tôi vốn ít có thời gian để đọc sách, vì vậy tôi phải có cách riêng để chọn sách đọc. Trước hết tôi hay nhìn cái tựa sách để đoán xem nội dung sẽ làm mình thích hay không. Sau đó tôi cầm lên và lật ra một trang bất kỳ đọc đại vài dòng. Nếu trong vài dòng bất chợt đó mà tôi nhận ra được cái độc đáo của tác giả thì coi như cuốn sách đó có duyên với tôi, còn không thì vô duyên. Có lẽ vì cách chọn ẩu tả vậy mà tôi đã không đọc được rất nhiều sách có giá trị khác. Riêng cuốn Cặn Bã Ký Ức thì chắc có duyên nên khi đọc đại một câu chuyện nào đó, tôi đã phải hỏi mượn người chủ để mang về nghiền ngẫm.

Thật vậy, những câu chuyện ngăn ngắn trong đây lại mở ra những đạo lý dài bất tận. Đầu tiên tôi khá ngạc nhiên vì biết tác giả đây là tín đồ Hòa Hảo, một giáo phái ở miền Tây Nam bộ mà từ lâu tôi không quan tâm nghiên cứu. Điều ngạc nhiên kế tiếp là giáo lý trong tập sách này lại đi về hướng hạnh và sự hơn là lý. Đó cũng lại là điều tôi tâm đắc. Khi đọc được một số chuyện, tôi đã phải thốt lên: “Ở Long Xuyên có Bồ Tát!”.

Chưa biết tác giả, chỉ đọc tập sách này, chúng ta cũng hình dung tác giả là một người sâu sắc, hiền lành, nghèo nàn, độ lượng, gần gũi với mọi người, và đặc biệt là kiến giải tu hành rất chuẩn mực chân chính. Dĩ nhiên người tín đồ nào cũng được thừa hưởng những lời dạy ban đầu của vị giáo tổ, nhưng chắc chắn là sự dụng công tu hành, sự sáng tạo, sự phát triển là cái độc đáo riêng của vị ấy. Khi gặp bác Như Sanh, tôi biết mình đã nhận xét đúng. Một đời tinh tấn tu hành, xét nét nội tâm, tận tụy vì người của bác đã làm nên một công trình giáo nghĩa sáng giá. Cuốn sách này xuất hiện lần đầu do anh Như Huyễn ghi lại những câu chuyện mà thỉnh thoảng bác Hai kể cho anh nghe theo ký ức của bác. Vì vậy nó có tên là Ký Ức. Còn Cặn Bã là do bác Hai muốn xem đây là những câu chuyện vu vơ lặt vặt. Thôi kệ bác!

Tôi có cảm hứng giảng lại toàn bộ tác phẩm CBKU như là một sự giới thiệu rất trân trọng với những người từng có duyên nghe tôi giảng. Và quả thật, những giáo lý trong đây hoàn toàn phù hợp với tinh thần chung của Đạo Phật và nhanh chóng vượt khỏi ranh giới giáo phái để được đón nhận nồng nhiệt khắp nơi.

Những câu chuyện bình dị với những lời đối đáp đôi khi khôi hài trong đây đã nêu lên những giá trị bất ngờ cho những người thích tìm cái gì quá cao xa. Chúng ta đã tìm thấy đạo trong từng góc nhỏ của cuộc sống khi Bác chèo ghe đi bán cũi, khi bác bị xe quẹt té lăn ra đất, khi ăn tiệc, khi nằm võng đong đưa... Những Đạp lý rất sâu sắc nhưng đã được khéo ứng dụng vào cuộc sống thường nhật. Điều này làm chúng ta giật mình vì từ lâu chúng ta quen đi tìm Đạo pháp ở những nơi tôn nghiêm, linh thiêng, trong giảng đường, trong chốn luận đạo...Và điều đó cũng giúp chúng ta hiểu rằng Phật Pháp là ở khắp mọi nơi.

Chúng ta cũng tìm thấy quang cảnh thanh bình yên ả của miền tây sông nước mênh mông, những con người Nam Bộ hiền lành chất phác, ngôn ngữ miệt vườn là lạ khôi hài.

Qua tập sách này, chúng ta càng thấy yêu thương con người nhiều hơn vì loài người có thể sai khác nhau trên nhiều phương diện nhưng điều chắc chắn là vẫn luôn luôn có một chân lý chung cho tất cả.

Xin chắp tay cúi đầu nguyện cầu cho tất cả chúng sinh đồng thành Phật đạo.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bút

Tỳ kheo Chân Quang


CẶN BÃ KÝ ỨC

(Tập hai)

Lời Giới Thiệu

100. TÔN GIÁO GIEO MÊ TÍN?

101. TU VỪA VỪA

102. TU LÀ LÁNH NẶNG TÌM NHẸ

103. TU CÓ BỚT NGHIỆP?

104. LÀM SAO KHỎI LẪN

105. CŨNG MỘT MỬNG

106. CÓ TIN CHẮC KIẾP NẦY SIÊU THOÁT?

107. CŨNG LÀ MÓN NỢ

108. HÓA THÂN BỒ TÁT

109. ĐỂ NGƯỜI THỌ ÂN KHỎI TỦI

110. PHÂN TÂM

111. ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC NGHĨA

112. BÁN VÕNG KHỎI CỘNG NGHIỆP

113. CÓ TRONG CÓ NGOÀI

114. NHẬN ĐƯỢC CÁI NGU

115. CON NGƯỜI TỪ ĐÂU ĐẾN...?

116. MÃI MONG CÁI KHÔNG CÓ

117. HỌC CÁI HAY

118. NHỔ RĂNG TỘI KHÔNG ?

119. MONG GẶP PHẬT

120. RÈN SỚM

121. ĐỂ CHA MẸ GIÀ KHÔNG CẢM THẤY SỐNG THỪA

122. ÍT KINH SÁCH NÊN ÍT "MAD"

123. ĐỪNG KHUYÊN !

124. CÒN QUÁ ÍT

125. NHƯ MÙ ĐI ĐÊM

126. DỨT KHOÁT NƠI LÒNG

127. TU SAO KHỎI SÓNG GIÓ

128. CÁI BỨT RỨT !

129. KHỎI THEO HÒA HẢO

130. TRẺ CON NÓI CÓ ĐÚNG ?

131. VỪA VỚI LƯƠNG TÂM

132. NẾM THỬ MỘT LẦN

133. TU VẬY CÒN CHƯA THẤY GÌ !

134. NHƯ LÀ LẦN CUỐI

135. THỞ LÀ HẠNH PHÚC

136. NHƯ MỘT NGỌN ROI

137. CHỚ LẦM NHÂN QUẢ

138. MẮC NIỆM PHẬT

139. SAO KHÔNG NHỚ Ở NHÀ TRÊN

140. CHỈ NỘI BỐN CUỐN

141. TÌNH YÊU

142. LẶNG TÂM

143. MÒ ĐỒNG HỒ

144. NGƯỜI XƯA CÒN SÓT

145. XÉT LẠI

146. ĐẠO PHẬT NGÀY MAI

147. NGÀY MAI BIẾT CÒN KHÔNG ?

148. CÚNG SAO CŨNG TRÚNG

149. TẠI KHÔNG NIỆM PHẬT

150. SỐNG SAO KHỎI KHỔ

151. TẬP TU VỚI NÓ

152. VỊ NGÃ

153. THA CHO BẢ ĐI !

154. THA LỰC VÀ TỰ LỰC

155. DỞ ẸC !

156. CHUA NGỌT

157. TU TRONG CÔNG VIỆC HÀNG NGÀY

158. CHỈ TOÀN THẤT BẠI

159. DẠY TU MÀ KHÔNG TU

160. GIẢI THOÁT CÁI BUỒN PHIỀN

161. PHẬT BẢO HAY MA XÚI

162. ĐEN TRẮNG CUỘC ĐỜI

163. CÓ THIÊN ĐƯỜNG, ĐỊA NGỤC ?

164. ĐẾN LÚC TÀN HƠI

165. NIỆM BỒ TÁT QUAN THẾ ÂM CHI VẬY ?

166. SAO HAY ĐỤNG CHẠM ?

167. CÔNG ĂN CHAY BỎ HẾT

169. MỘT SỰ VIỆC, HAI CÁCH NHÌN

170. BỐ THÍ NIỀM VUI

171. TU SAO CHO KỊP

LỜI CUỐI


100. TÔN GIÁO GIEO MÊ TÍN?

Tôn giáo có gieo mê tín như lắm người nói thế không?

Có người hỏi Bác Hai[1]:

– Tôn giáo sao hay gieo mê tín quá vậy anh? Chừng gỡ được cũng trầy vi tróc vẩy.

Bác đáp:

– Không phải đâu! Mê tín [1] là khởi nguyên của tôn giáo. Nếu không có mê tín sẽ không có tôn giáo. Có điều một chánh giáo thì dẫn người ta từ mê tín đến trí tín, từ bờ mê sang bến giác. Còn tà giáo thì gây mê mờ thêm, đưa người đi sâu vào mê lộ!

Tóm lại cái gì mình chưa hiểu tường tận mà tin đều là mê tín cả, dù là tin theo Phật hay khoa học... (


101. TU VỪA VỪA

"Đạo suy đời rối lu bù"

Do đó các bậc Thánh Nhân mới chấn hưng đạo đức để thiện mỹ hóa cuộc sống. Tu là làm đẹp cho đời.

Tuy nhiên có số người nghĩ tu là phải lánh xa cuộc thế, không nhúng tay vào bất cứ việc làm nào của gia đình dù là việc làm ăn rất lương thiện.

Câu chuyện "TU VỪA VỪA" sau đây nói lên hoạt cảnh buồn cười ấy.

Có ông cư sĩ chuyên lo tu niệm. Việc nhà ông giao hết cho vợ con. Một hôm, gần ngày giỗ, vợ ông phơi hai giạ nếp trước sân. Bà có việc đi xóm một chốc nên bảo ông:

– "Ông ở nhà coi chừng gà giùm tôi nghe!"

Khi bà vợ ông về thì hỡi ơi, gà xúm bươi nếp văng tứ tung, còn ông thì "mắc niệm Phật". Bà bực quá nói:

– Ông ơi! "Ông tu vừa vừa" cho vợ con nhờ với, tu như vầy chết vợ chết con hết ông ơi!!! (


102. TU LÀ LÁNH NẶNG TÌM NHẸ

Nghe tiếng bé khóc, bà mẹ lật đật chạy vào nhà, thấy con kẹp tay trong lọ với một vóc kẹo to tướng. Bà cười bảo:

– Buông ra!

Bé lắc đầu bệu bạo:

– Kẹo ngon lắm mẹ!

Buông! Lời nói rất gọn, nhưng hành động buông bỏ không đơn giản. Nó đòi hỏi ở ta một mức độ trưởng thành nào đó, mới buông bỏ được những điều ưa thích. Giới tu sĩ gọi là "cắt ái".

Phàm người tu ai cũng muốn thong dong tự tại. Do đó ta cố gắng ăn chay, cúng lạy, niệm Phật...

Tu lâu rồi mà sao lòng vẫn còn buồn phiền bực dọc. Thế thì tu là phải làm sao nữa? Đó là câu hỏi của một vị nữ cư sĩ trong mẩu chuyện sau đây:

Có mấy cháu gái ở chung nhau lo tu lâu lắm rồi mà thỉnh thoảng cũng có chuyện lục đục nhau.

Một hôm tới giờ công phu, cô vừa mặc áo tràng vừa hỏi:

– Ông Hai à! Tu là làm sao nữa Ông?

Bác cười nói:

– "Tu là lánh nặng tìm nhẹ". Những cái gì nặng nề bực dọc, phiền muộn hãy buông bỏ đi, đừng ôm gồm chấp chứa mệt lắm!

Nó cười rồi đi cúng. (


103. TU CÓ BỚT NGHIỆP?

"Đã mang lấy nghiệp vào thân,

Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa."

  • Như thế tu có bớt nghiệp không?

Thưa có!

Dưới đây tác giả giải bày, minh chứng một cách cụ thể tu có bớt nghiệp. Đúng như câu thơ của cụ Nguyễn Du:

"Có Trời mà cũng có ta,

Tu là cội phúc, tình là dây oan."

Tin nhận rõ ràng "Tu có bớt nghiệp" ta hãy:

"Mau cải hối cho nguôi lửa nghiệp,

Sớm tùng lương kiếp khỏi chìm sâu!"

Dưới đây là câu chuyện:

Một đứa cháu bị bệnh tâm thần nhẹ. Trong thời gian bệnh phát, nó đi cùng xóm đọc Giảng Kệ, niệm Phật vang ngoài đường sá, không sợ ai cả.

Ít lâu, bệnh bớt khá! Một hôm nó theo Bác chơi. Đi dọc đường nó hỏi Bác:

– Bác Hai! Mình tu mà sao không bớt nghiệp hở Bác? Con cố tu mà vẫn còn bị "mad"!

Bác nói:

– Bớt chứ sao không cháu! Bình thường cháu lo tu hiền, xem Kinh Giảng, niệm Phật nên lúc bệnh tâm thần phát lên, cháu chỉ đọc Giảng Kệ, niệm Phật vậy thôi! Thế là nghiệp khổ đã bớt nhiều đấy.

Nếu hằng ngày cháu hung dữ, nhậu quậy, đánh lộn gây gổ thì hôm "lên cơn" cháu sẽ quậy phá, đập đổ tan hoang nhà cửa, đánh vợ, chửi con, mắng nhiếc chòm xóm... Bây giờ tỉnh lại chỉ còn cả một cảnh đổ nát tan tành chứ đâu được yên lành như vầy. Được yên lành là nhờ tu hiền nên bớt khổ đó cháu!

Nó tuy mới tỉnh cũng nhận được, gục gặt đầu nói:

– "Bác nói có lý!".(


104. LÀM SAO KHỎI LẪN

Năm với tháng qua dần. Cái già nua bệnh tật kéo đến hành hạ con người! Mang lấy xác thân, cơ thể và các múi não bị lão hóa. Trí nhớ bị xói mòn, suy tư, nói làm lẫn lộn ngu ngây!

Làm sao khỏi lẫn?

Đó là vấn đề bức xúc cho khoa học hiện đại:

"Sức lên Trời xuống biển có thừa,

Nhưng thiếu sức ngăn ngừa bệnh lão!"

Các Tôn giáo có làm gì hơn để giúp con người thoát khỏi già, bệnh, chết?

Định luật thiên nhiên, Thành, Hoại phải như thế, nhưng trước khi nghiệp quả chưa muồi, với thời gian còn đó, ta có thể tự an định tinh thần chuyên tâm hướng thiện để giảm bớt nỗi bi đát của kiếp người.

Chuyện "Làm Sao Khỏi Lẫn" dưới đây hun đúc tinh thần ta vươn lên để đổi thay phần nào số phận không may.

Có cháu hỏi:

– "Con thấy mấy người già thường hay lẫn quá! Vậy làm sao khỏi bị lẫn hở Bác?

Bác đáp:

– "Muốn khỏi lẫn hãy rángg tu ngay khi còn sáng suốt".

– Rángg tu nhưng cũng bị lẫn rồi làn sao?

– Chuyên lo tu hiền, làm lành niệm Phật dù có lẫn cũng chẳng sao! Bác thuật lại chuyện chú em bị "mad" kể trên cho cháu nó nghe và nói thêm:

"Có ông Đại uý bị thằng lính say rượu chửi! Ông ta đánh nó. Nhiều người can: "Nó say quá biết gì, ông đánh nó tội nghiệp." Ông đáp: - "Nó muốn chửi tôi lâu lắm rồi, có điều không dám nói ra. Nay mượn hơi rượu mới chửi ra đó, chớ phải mới chửi đây đâu! Say sao không chửi dòng họ nó mà chửi tôi!"

Mình không ưa lối đánh đập người như vậy, nhưng xét kỹ thì ông ta nói cũng có lý.

Nghe người ta nói mấy ông già, bà cả hay lẫn quá! Một ông bạn Bác nói:

– "Không phải già mới lẫn đâu, họ lẫn hồi còn trẻ kìa!"

Ý kiến trên rất đúng. Khi lớn tuổi, các múi não bị lão hóa, lý trí không còn suy xét phải trái người ta chỉ hành động theo tập quán, theo thói quen hằng ngày thôi. Có người lẫn, suốt ngày cứ cúng lạy hoài, gặp ăn xin có bao nhiêu tiền móc cho hết. Hoặc có người tối ngày cứ chửi hết đầu trên đến xóm dưới. Người thì gặp đồ đạc của ai cũng lấy về nhà, còn mắng người ta ăn cắp của mình nữa v.v…

Thế nên ta hãy rángg tu hiền ngay từ bây giờ, để ngày kia dù có bị nghiệp chẳng lành lẫn lộn thì nhờ tập quán tốt, có lẫn chắc cũng dễ thương, không đến nỗi làm phiền gia đình và chòm xóm. (


105. CŨNG MỘT MỬNG

"Ghét ưa đừng để dạ,

Duỗi cẳng nghĩ thanh nhàn."

Người đời gây ra lắm chuyện phiền hà rắc rối cũng vì lòng ưa ghét xói mòn đi hạnh phúc vốn đã ít ỏi của mình. Thế nên mấy khi mà được an nhàn.

Trong cửa đạo, người tu cũng mắc phải cái ghét ưa ấy làm ngăn ngại không cho ta nhận được lẽ phải, tìm được an vui.

"Lánh rồi cái ghét cái ưa,

Gặp ông đại giác thượng thừa tối cao".

Trên đường về chân thiện mỹ con người cần buông bỏ cái ghét ưa để được thong dong tự tại. Ngược lại ắt không khỏi buồn than "Sao tu hoài không thấy tiến!".

Câu chuyện "CŨNG MỘT MỬNG" dưới đây rất đơn sơ nhưng biểu lộ cái chướng ngại của lòng ưa ghét ấy!

Người bạn Bác Hai khoe con của ông:

– Thằng nhỏ tôi hồi còn đi học, quần áo chưa ủi thẳng nếp, nó không chịu mặc. Bây giờ nó phát tâm tu rồi, ngược lại đồ tốt tươm tất, nó lại không chịu mặc. Nó chỉ ăn mặc xoàng xĩnh và đi làm công quả theo các cơ sở từ thiện vậy thôi.

Sau Bác kể lại cho các bạn khác nghe chuyện trên và kết luận:

– "Như vậy thì cùng một mửng chứ có gì". Chưa tu đồ xấu chê không mặc. Tu rồi đồ tốt kỵ không mặc thì cũng một thứ ưa ghét thôi, có hơn kém gì? (


106. CÓ TIN CHẮC KIẾP NẦY SIÊU THOÁT?

Có chàng cư sĩ, ít nói, ngày đêm nôn nã tu hành, mong mau đắc quả. Bỗng một hôm chàng ta rêu rao là mình đã thành đạo. Y đi khắp xóm làng giảng giải đạo lý "um sùm bát nhã", khuyên mọi người tu theo y sẽ kết quả nhanh chóng:

– Tu cái rụp.

– Thành Phật cái rụp.

– Độ đời cái rụp.

Cũng may vài tháng sau y tỉnh trí lại.

Việc tu hành cần phải:

"Kiên tâm mới thấy cơ trời,

Đừng gieo nữa buổi chiều thời muốn ăn".

Đường tu bất luận mau lâu, phải đạt đến công viên quả mãn, phước huệ tròn đầy mới mong siêu thoát. Nếu ta quá nôn nóng, rồi thời gian lần lượt trôi qua, mãi không thấy gì tức niềm tin bị chao đảo, dẫn đến bán đồ nhi phế uổng công. Hoặc quá bôn chôn e rồi phải "thành Phật cái rụp" như chàng cư sĩ trên thì quả là tai hại.

Lời giải đáp câu hỏi: "Có tin chắc kiếp này siêu thoát không?" Nêu lên quan điểm tu hành không bị lệ thuộc vào yếu tố thời gian.

Và câu chuyện như sau:

Một hôm, đến thăm người em bạn, trò chuyện giây lâu, bạn Bác hỏi:

– Anh tu mà có tin chắc kiếp này siêu thoát không?

Bác đáp:

– " Tôi tin tôi không nổi rồi, vì thấy mình tu lôi thôi quá! Có điều dám quả quyết là không bao giờ lui sụt, bỏ tu. Chẳng những kiếp này mà dù trải muôn kiếp nữa cũng vẫn tu. Bởi tu là hạnh phúc, tu là làm đẹp cuộc đời, cho nên không bao giờ thối chuyển. Còn tin kiếp này siêu thoát hay không là điều tôi không mấy quan tâm đến." (


107. CŨNG LÀ MÓN NỢ

“Đi ngang ngôi Tam Bảo khẽ hơi cúi đầu một chút người ấy cũng sẽ thành Phật “(Kinh Pháp Hoa).

Một chút kính ý cũng đã gieo được duyên lành với Phật Pháp. Các vị cứu đời đều khuyên ta nên gây lấy thiện duyên với mọi người, và trángh gieo ác nhân để khỏi khổ quả về sau.

Lại nữa, con người không thể sống đơn độc được, nên việc nghĩa ân chằng chịt nhau. Ta phải lo đền nợ thế. Đến bậc siêu nhân như Đức Thầy mà còn:

"Nợ cùng bách tính hỡi cùng vương"

Về vật chất, đời sống ta phải nợ nần nhau đã đành, mà chí đến chút tình thương, hay chút lòng tôn kính nhau cũng là món nợ.

Câu chuyện "CŨNG LÀ MÓN NỢ" dưới đây nói lên một món nợ "bất đắc dĩ". "Bất đắc dĩ" vì mình không muốn tí nào nhưng không làm sao thoái thác được. Và, thật ra đó cũng là một luồng gió mát giữa cõi đời nghi ngút khói ganh hờn!

Câu chuyện như sau:

Vào khoảng năm 1954 Bác Hai có đi dạy khóa "Bình Dân Học Vụ" (phong trào xóa dốt). Trên đường từ nhà trọ đến trường có cái chòi lá của ông lão nghèo nàn, mà ông thì xỉn 24 trên 24.

Có điều lạ, ông không nể sợ ai cả nhưng mỗi lần gặp Bác ông xá rất sâu, xong hai bàn tay vuốt lên đầu một cách cung kính. Bác chào đáp lễ nhưng lòng áy náy vì không muốn người ta quá tôn trọng mình như thế, ngặt không làm sao ngăn ông được. Tuy Bác không muốn được sự kính mộ ấy nhưng vẫn thấy đó là món nợ của mình với kẻ khác. Thế nào sau này nếu Bác được đắc đạo cũng phải lo độ ông ấy và độ được ông ta chắc cũng mệt lắm!!! (


108. HÓA THÂN BỒ TÁT

Chuyện xảy ra hơn 30 năm rồi. Một ông cùi bỗng nhiên xuất hiện. Ông đi xin nhưng không kêu than xin xỏ, không ghé vào nhà, chỉ đứng ngoài đường ngay mỗi nhà ít phút rồi đi. Ai cho dưới 5 đồng hay nhiều hơn 5 đồng ông cũng không nhận. Vẻ mặt kênh kênh kiệu kiệu, không hề chào đáp lễ một ai. Miệng không nói một lời cảm tạ lúc nhận tiền.

Thấy lạ, nhất là mấy bà, nghi là Phật Tiên hóa hiện để thử lòng nhân thế. Nhiều người không đủ 5 đồng, phải kiếm mượn thêm, hoặc giấy bạc lớn phải đổi tiền lẻ chọn đúng 5 đồng đem cho ông cùi để cầu phước.

Được hơn tuần lễ có người bỏ công theo dõi, biết ông ta đậu ghe chỗ vắng, giả trang xuất hiện đi xin. Ông có cả hai bà vợ thường ganh tỵ chửi nhau như bầm bầu.

Bể mánh hết kiếm ăn được, ông chèo ghe đi xứ khác. Chuyện tầm thường thôi. Có điều đáng tiếc là kẻ giả tá Thánh Thần thì mất đức. Người bố thí với đầu óc con buôn phải mất tiền.

Câu chuyện "HÓA THÂN BỒ TÁT" sau đây giúp chúng ta nhận được vô số hóa thân Bồ Tát thứ thiệt, mặc tình mà gieo rải phước duyên!

Có đứa cháu xem kinh giảng thấy nói về sự hóa thân thiên hình vạn trạng của chư Bồ Tát để cứu vớt chúng sanh. Trong số đó có Bồ Tát Quán Thế Âm thường hóa hiện ra người già cả ăn xin. Ai mà bố thí một đồng tiền cho hóa thân Bồ Tát thì phước lớn hơn trái đất. Nghe thế nó ước phải mình gặp phải hóa thân của Bồ Tát để bố thí thì hưởng phước đã!

Bác nói:

– Nếu vì lòng tham cầu phước lớn, cháu tìm suốt đời cũng không gặp hóa thân của Bồ Tát đâu! Nhưng nếu vì lòng từ bi thương xót người đói khổ hoạn nạn... mà bố thí cho họ, những kẻ khốn cùng ấy đều là "Hóa thân củùa Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cả!".(


109. ĐỂ NGƯỜI THỌ ÂN KHỎI TỦI

Gặp người nguy ngặt nghèo túng, ta đem tiền của hay công lao bố thí giúp người được chút an vui đúng với ý nghĩa "Ban vui cứu khổ". Nhưng đôi khi vì vô tình sơ ý trong thái độ cho mà tặng phẩm trở lại gây thương tổn lòng tự ái của người thọ.

Khi giúp người, nên lưu ý tế tâm một chút ta sẽ có nhiều cách cho ra mà không làm tủi lòng người nhận.

Dưới đây là một trong vô vàn cách cho rất đẹp.

Một hôm đi phà Thuận Giang, Bác lấy chai dầu gió "Kim" ra xức. Có người đàn bà ăn mặc lam lũ, ôm con ngồi dưới phà nhìn Bác lom lom. Khi Bác xức dầu xong cô ấy nói:

– Bác làm ơn cho con mượn xức một chút, hồi hôm giờ trong người khó chịu, cần một miếng dầu gió lắm mà không có!

Bác đưa chai dầu cho cô ấy. Cô xức cho mình và cho con với một thái độ rất thỏa mãn. Thấy vậy Bác muốn tặng luôn, nhưng e người ta có thể nghĩ là mình gớm mà bỏ. Chờ cô xức xong trả lại. Bác mở nút chai dầu xức thêm lần nữa rồi đưa cho cô và nói:

– Biếu cô chai dầu để xức cho cháu!

Sở dĩ Bác làm như thế để người thọ ân không tủi thân vì hiểu lầm mặc cảm là mình nghèo khổ lem luốc người ta gớm nên không thèm lấy chai dầu lại. (


110. PHÂN TÂM

Có câu tục ngữ:

" Đặng buồn này, khuây buồn nọ"

Ý nói tâm con người ta hễ bận lo nghĩ việc nầy tức quên đi chuyện nọ.

Có lần đi thăm đứa cháu bị ung thư đến thời kỳ chót, bệnh hành cháu đau đớn rên than, bác Hai khuyên cháu tha thiết niệm Phật, nhưng không nói đến sự mầu diệu của Tiên Phật mà chỉ nói tác dụng thiết thực của tâm lý.

"Người buồn niệm Phật muôn sầu tiêu tan!".

Bà chủ nhà đem ly nước ra mời và hỏi:

"Niệm chữ Di Đà tan chướng nghiệp"

Sao mình tu niệm mà nghiệp không tan, còn đau ốm mãi?

Đang khuấy đường trong ly đá chanh, bác Hai chợt nghĩ ra lời đáp:

– Tại chưa đúng mức chưa tan! Hễ đúng mức thì nó tan! Chớ nên:

"Niệm Phật một tiếng đòi an bệnh liền" (SG). Chắc khó được!

Chuyện "Niệm Phật phân tâm bớt đau", bác dè dặt sợ bệnh nhân đau đớn quá, niềm tin bị lay chuyển, nên nung đúc đề cao đức tin nơi Tam Bảo.

Mà thật vậy, đức tin mạnh mẽ thiết tha của mình cũng làm vơi đi nỗi khổ.

(Câu chuyện Phân Tâm được kể như sau:)

Có đứa cháu gái gọi Bác bằng ông nội. Nó bị ung thư gan tới thời kỳ chót. Bệnh hành nhức nhối dữ dội! Nó cũng biết niệm Phật lâu rồi. Thấy nó đau đớn lăn lộn, Bác khuyên:

– Khi nào nhức quá con rángg niệm Phật tha thiết, nó phân tâm sẽ bớt đau.

Bác không bảo niệm Phật để Phật hộ trì cho tai qua nạn khỏi. Vì bảo thế, nó niệm Phật mà vẫn còn đau thì mới nghĩ sao? Thế nên Bác khuyên nó chí thành niệm Phật thì tâm mình không còn nghĩ đến chỗ đau, do phân tâm nên quên, bớt đau nhức.

Đó là sự thực. Ví như mình đang có chuyện buồn phiền, bỗng đằng xóm xảy ra chuyện lu bu gì đó khiến mình để ý lắng nghe, trong nhất thời quên bẵng chuyện nhà vậy. Với lại lòng chí thành tin tưởng vào Đức Phật, chính lòng tin tha thiết đó cũng có thể làm nên phép lạ. (


111. ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC NGHĨA

Ném một hòn đá xuống mặt hồ yên lặng. Ta thấy những quầng sóng nổi lên và lan dần ra. Càng xa quầng sóng càng rộng đến vô cùng.

Việc làm nhân nghĩa cũng thế. Ảnh hưởng tốt của nó cứ lan rộng mãi theo với thời gian, đến đương sự còn không ngờ.

Ngược lại, làm một việc vô nghĩa bất nhân tai hại cũng khủng khiếp!

Hiểu biết và tin nhận lẽ tốt xấu trong câu chuyện giúp ta tìm lấy một hướng đi trong đời sống đạo.

"Khổ vui hai nẻo, tiến thân một đường"

Và chuyện ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC NGHĨA như sau:

Thời Ngụy có chú em ở số 5 Tri Tôn An giang, bị bắt quân dịch (nghĩa vụ). Khi ra quân trường chú được đưa xuống Sóc Trăng. Chú ta đào ngũ, trốn vô chùa Miên. Ông Lục cả bảo:

– Không được, chú ở đây là bị bắt ngay! Muốn ở yên chú phải cạo đầu, đắp y làm Ông Sãi mới được.

Vì sợ cảnh chiến trường, chú ta đồng ý. Ông Lục dạy cho chú phong cách của một nhà sư, rồi ít lâu cho tiền và đưa chú ấy ra xe về quê.

Về đến nhà mọi người đều chưng hửng, không ngờ lúc đi là một tên quân dịch, lúc về lại là Ông Sãi. Sau khi nghe chú kể đầu đuôi câu chuyện, ba má chú cảm động, định có dịp sẽ xuống Sóc Trăng thăm ông Lục để tạ ơn và trả y bát lại. Thế rồi ít lâu sau Cách Mạng giải phóng miền Nam nên cuộc đi thăm ông Lục không thực hiện được.

Vài năm sau hòa bình, có một dạo nhà nước sơ tán số người Miên ở Thất Sơn về vùng kinh tế mới. Không hợp với cuộc sinh sống vùng Hậu Giang, những người Miên này lần hồi trốn về Bảy núi hết. Có một nhóm khoảng vài mươi người đến Tri Tôn, tạm dừng chân ở xóm của chú em trốn quân dịch mà thuở trước nhờ Ông Lục Miên cứu. Ba má chú ấy nhớ ơn nghĩa ông Lục nên vận động bà con nấu cơm cứu trợ mấy ngày liền, đến khi nhóm người Miên ra đi mới thôi.

Qua sự việc trên, chúng ta thấy rằng việc làm nghĩa của Ông Lục làm cho những người Miên (đồng bào của ông) được hưởng nhờ. Rồi đây, ngày kia nếu có số người Việt nào gặp tình cảnh nguy biến lọt vào sóc Miên mà trước kia có nhờ sự cứu trợ của người Việt nói trên chắc họ cũng sẵn lòng giúp đỡ lại.

Thế là việc nghĩa cứ lan rộng mãi không biết đến bao giờ hết mà chính đương sự cũng không ngờ được. (


112. BÁN VÕNG KHỎI CỘNG NGHIỆP

"Chỉ gật đầu cũng đủ tai ương,

Chẳng đợi đến chủ trương mới tội". (TS)

Hai câu trên nói về cộng nghiệp do sự đồng tình trong việc làm hung ác của kẻ khác. Cũng có trường hợp đặt sai quan điểm về cộng nghiệp khiến ta không dám làm việc nghĩa. Như thấy người hung lâm nạn, không giúp đỡ, vì sợ sau khi tai qua nạn khỏi, người ấy lại sát hại vô số sinh vật để ăn, làm điều bất lương để sống, rồi ta phải chịu chung tội ác ấy sao?

Chuyện thế này:

Có dạo bác Hai bán dao mác. nhiều anh em cư sĩ cho việc làm ăn ấy phải bị cộng nghiệp sát sanh với những người dùng đồ bén của mình, nên đề nghị khuyên bác: "Bán võng khỏi bị cộng nghiệp".

Bác nói:

– Thôi đi! Dao của tôi ảnh hưởng tới đâu tôi biết. Còn nằm vắt vẻo đong đưa trên võng rồi suy nghĩ trăm mưu nghìn kế biết đâu mà tôi chia cho xiết!

Lần khác, ghé nhà người quen, họ cũng chỉ trích việc bán dao búa là bị cộng nghiệp với kẻ ác. Tình cờ có ông bạn, chuyên hốt thuốc miễn phí đi đến. Bác vớ ngay ông ấy và nói:

"Ông này tội lớn nhất nè!"

Ông ta chưng hửng hỏi:

– "Sao vậy?"

Bác bảo:

– "Đức Thầy nói: "Một trăm mới được ôi thôi mười người". Tức 100 người chỉ có10 người tốt thôi, còn lại toàn là thứ dữ! Anh hốt thuốc giúp người ta mạnh giỏi họ làm hung ác cả đời biết bao nhiêu tội lỗi, anh chia với họ cũng đủ chết luôn!

Ông cười xòa. (


113. CÓ TRONG CÓ NGOÀI

Tề Thiên Tiểu Thánh (HẬU TÂY DU KÝ ) đánh với một đứa bé suốt ba ngày bất phân thắng bại. Đứa nhỏ có 72 cái vòng phép trói người. 71 vòng đã quăng lên thi triển thần thông, Tiểu Thánh né trángh dễ dàng. Hôm nay chỉ còn cái vòng chót, thu hết tàng lực tung lên. Tiểu Thánh cười khẩy nhảy sang bên để trángh. Lạ thay cái vòng ấy vẫn chụp được và xiết thúc ké Tiểu Thánh lại. Túng cùng, Tiểu Thánh bèn cân đẩu vân đến chỗ của Thái Thượng Lão Quân đang đốt lò Bát quái luyện linh đơn. Tới nơi Tiểu Thánh lớn tiếng:

– Ông thợ rèn ơi! Chặt dùm cái khoen sắt này cho tôi!

– Con khỉ quen tánh xấc xược! Lão quân cười nói. Mi biết mấy ngày rày mi đánh với ai đấy không?

– Không biết, nhưng thằng nhãi ấy rất lợi hại!

– Nó là "Tạo nhi" tức "Trời Con" đó!

– Hèn chi thua nó cũng phải! Ủa, mà sao bỗng dưng cái vòng tự rớt ra rồi?

Lão quân nghiêm giọng:

– 72 cái vòng ấy tượng trưng cho các tánh xấu đam mê của con người như: danh, lợi, tình, ăn, ngủ, ganh, ghét,v.v... Cái vòng sau cùng này là vòng "Háo thắng". Nhà ngươi trángh né dễ dàng các vòng kia, nhưng vì lòng háo thắng của ngươi quá lớn nên vòng háo thắng này mới trói ngươi được. Nay nghe đứa bé ấy là "Tạo Nhi", người nhận mình thua là phải, lòng háo thắng đã hết vòng háo thắng tự nhiên tháo ra.

Cũng như trên, chuyện "Trong có ngoài mới có" dưới đây là chuyện vui hàm ý cảnh giác ta nên tế tâm xét nét những lỗi lầm nhỏ nhặt, sâu kín trong lòng mình, chớ đổ thừa do ngoại cảnh!

Có cư sĩ hoài nghi hỏi:

– Có cảnh giới Niết Bàn riêng biệt ở đâu đó cho người tu chứng đến đó an dưỡng hay là chỉ có Niết Bàn tự tâm mà thôi! Khi tâm mình đạt đến một trạng thái bình an nào đó gọi là Niết Bàn bất sinh, bất diệt hở bác?

Bác nghĩ, nếu nói có cảnh giới Niết Bàn thì làm sao minh chứng. Nếu nói không có, sợ sai với Kinh sách, nên bác nói:

"Hễ trong có thì ngoài có; trong không thì ngoài không".

Nó đồng ý.

Nhân đây bác nhắc lại, chuyện bác viết về nàng Ma Đăng Già và ông A Nan.

Trong chuyện có đoạn: Nàng Ma Đăng Già vì quá yêu ông A Nan và tuyệt vọng đến đau tương tư!

Mẹ nàng thương con nên đánh liều, mướn một thầy chú thuật (thầy bùa) làm phép cho A Nan thương con bà!

Một hôm, A Nan đi khất thực ngang nhà Ma Đăng Già.

Đoạn này bác Hai viết: "Không biết phải do sự linh thiêng của phù chú chăng? Mà Ma Đăng Già giơ tay ngoắt ông, ông riu ríu vào nhà nàng.

Một đứa cháu đọc đến đoạn này thắc mắc hỏi:

– Tại sao bác không nói "Do sự linh thiêng của phù chú mà lại để câu nghi vấn như vậy?"

Bác nói:

– Trong phạm vi siêu hình, mình khẳng định là không đúng. Mà sự thật, cái gì cũng phải "có trong cũng có ngoài". Giữa ông A Nan và Ma Đăng Già có tiền kiếp từng là vợ chồng, yêu thương sâu đậm! Biết đâu tình xa xưa còn chút vấn vương! Chẳng phải do sự linh thiêng của phù chú không đâu! (


114. NHẬN ĐƯỢC CÁI NGU

"Biết lầm, lầm đã khỏi mình,

Như ngoài hình mới biết hình tròn vuông".

Khỏi phải tìm kiếm cái khôn, chỉ nhận được cái ngu của mình là khôn rồi vậy!

"Rángg nhận được cái ngu" là câu trả lời cho một người bạn hỏi:

– Tu là làm sao?

Với cả một bồ đầy cao ngạo tự mãn!

Câu hỏi nầy của người quen với Bác. Anh này học thức khá mà tánh hơi cao ngạo. Bác trả lời:

– Tôi tu là rángg nhận ra cái ngu của mình!

Ông bạn không nói gì, không biết ông có hài lòng chăng? Tuy nhiên, trên thực tế mỗi ngày qua mà mình nhận thấy mình ngu thêm một chút là có tiến bộ.

"Biết được cái ngu là đã khôn vậy!" (


115. CON NGƯỜI TỪ ĐÂU ĐẾN...?

Quá khứ đã qua rồi. Tương lai chưa đến. Chỉ có giây phút hiện tại là thật hữu. Chúng ta chỉ kiểm soát mình trong giây phút hiện tại nầy và chịu trách nhiệm về việc sử dụng giây phúy ấy, trong việc thiện hay ác.

Ngoài ra các việc đàm huyền, luận diệu chỉ dành khi rảnh rỗi lúc trà dư tửu hậu.

Câu chuyện như sau:

Một số anh em cư sĩ ở Cái Dầu làm trong nhà thuốc nam, lúc rảnh việc hay thảo luận đạo lý. Hôm đó bàn về đề tài: "Con người từ đâu đến, chết rồi về đâu?"

Người bàn thế nầy kẻ luận thế nọ vẫn chưa ngã ngũ.

Trong nhóm có một chú bị bệnh tâm thần nhẹ, hiền lành và hay đến làm công quả ở phòng thuốc nam miễn phí. Trong cuộc thảo luận trên, mọi người phát biểu xong xoay qua chỉ chú em "mad" ấy hỏi:

– "Còn đệ ý kiến ra sao – Con người từ đâu đến, chết rồi về đâu? "

Chú ta tỉnh bơ đứng dậy nói gọn gàng:

– Trước khi chết, má tôi bảo: "Con ở lại rángg lo tu hiền tạo phúc đức nghe con!"

Nghe câu trả lời trớt lớt ngoài đề ai cũng ôm bụng cười.

Đứa cháu kể chuyện trên cho Bác nghe xong, nó hỏi:

– "Thằng mad đó nói như vậy, Bác thấy sao?"

– Nó "mad" nên nói đâm lao chứ sao. Có điều Bác rất chịu câu nói đó.

– Dạ, con cũng rất thích câu đó!

Lúc bấy giờ cũng có cháu cư sĩ nghe chuyện trên chen vô bình luận.

– Trời! Ông Thiền Sư nào nhập xác cho thằng mad nói một câu nghe đã quá!

Con người từ đâu đến, chết đi về đâu? Việc ấy quá xa vời. Điều cần yếu là mình làm được những gì có ý nghĩa trong cuộc sống hiện tại. (


116. MÃI MONG CÁI KHÔNG CÓ

"Cái tuyệt vời là những cái mà ta chưa có.

Khi đã có thì nó trở thành tầm thường!"

Đó là tâm lý chung của mọi người. Thế nên ta luôn thờ ơ dẫm đạp lên hạnh phúc sẵn có, để mong tìm cái ngoài tầm tay. Do đó hạnh phúc trở thành là đường đi không đến. Vì ta không biết dừng lại để hưởng, mà cứ đẩy mãi nó vào tương lai xa tít. Có người đánh xe thấy con ngựa mình già yếu, bèn treo bó cỏ non trước đầu ngựa đề nung đúc nó cố gắng lên. Nhưng mãi mãi bó có vẫn còn xa cách. Cuối cùng nó ngã qụy mà bó cỏ vẫn ở phía trước!

Hạnh phúc đòi hỏi ta phải nhận được nó, biết hưởng và bồi dưỡng cho nó được dài lâu.

Thờ ơ với hạnh phúc bên mình, khi nó ra đi rồi cái gì còn lại? Thế là ta mất đi tất cả!

"Mãi mong cái không có" là con đường ảo vọng nói trên mà ta vô tình tự chọn, để rồi ngày kia phải buồn than hối tiếc lúc buông tay!!!

"MÃI MONG CÁI KHÔNG CÓ" là tựa câu chuyện kể sau đây:

Có cháu gái than phiền với bác:

– Trong nhà con cũng có tương đối đủ đồ hết, thế mà ba má con không bao giờ thỏa thích khen cái này tốt, cái kia đẹp... mà bà cứ đòi hỏi cái chưa có không hà! Nào là mình còn thiếu quạt trần, ti vi màu, tủ lạnh,v.v… Còn cái sẵn có bà không hề nhắc tới!

Nghe xong bác cười:

– Mãi mong cái không có. Cái không có đã là không có rồi, cái có cũng mất luôn! Bởi không nghĩ đến nó thì cũng như không có vậy! (


117. HỌC CÁI HAY

Người xưa khuyên ta nên học hỏi bằng cách xét lại mình. Thấy cái hay của người, nên xét coi mình có được như thế không mà cố gắng làm theo.

Thấy cái dở cái xấu của người, nên xét mình có phạm phải như người không, để cố chừa bỏ.

Học như thế ta được rất nhiều lợi ích. Lại nữa, đối tượng mà mình ngắm để soi gương có tốt hay xấu, chánh hay tà không quan ngại gì đến mình cả.

Gặp người có ít việc hay, hoặc vài điều dở ta không vì đó mà chấp nhận hay phủ nhận tất cả việc nói làm của họ. Ta chỉ rút tỉa những gì có lợi để vun bồi trí tuệ và đức hạnh cho mình thôi.

Và đây câu chuyện HỌC CÁI HAY:

Có người nhờ bác hai phê bình xem sư cô Thanh Hải chánh hay tà, những điều cô nói đúng hay sai.

Bác nói:

– Người ta thông minh hơn bác quá mà phê bình gì nổi. Mà thôi đi! Cái gì hay của người thì mình học để làm giàu cho kiến thức. Cái gì dở cũng là bài học để ta trángh phạm lỗi ấy. Chứ mình có đi theo làm đệ tử người sao mà liệu lượng chánh tà!

Dụ như, thấy nhà ai trang trí đẹp mắt mình để ý, rồi tùy khả năng về trang trí nhà mình. Chứ đâu phải thấy nhà sang trọng rồi xin vào ở đợ mà phải hỏi xem ông chủ nhà đó tốt hay xấu?

Hãy như con ong hút các thứ mật hoa về luyện thành "Mật ong". Học như thế, tâm hồn ta càng ngày càng phong phú thêm lên. (


118. NHỔ RĂNG TỘI KHÔNG ?

Có câu tư tưởng: "Sợ tội là chi? Hay đó chính là cái tội?"

Người lương thiện phải biết sợ tội lỗi để trángh những việc làm có phương hại đến mình và người. Đó là điều rất tốt đẹp. Sao lại bảo sợ tội chính là cái tội?

Bất cứ việc gì thái quá hoặc không hợp thời cơ đều bị phản ảnh ngược lại cả.

"Câu chuyện nhổ răng tội không?" ngắn ngủi, dí dỏm đã nói lên cái nghịch lý của lòng tốt đặt sai định hướng. Nhắc ta nên có tầm nhìn rộng rãi chính xác hơn về những lời khuyên dạy của người xưa.

"Thân thể phát phu thọ ư phụ mẫu"...

Câu chuyện xảy ra như sau:

Có bà già hiền lành chân thật lắm. Bà nghĩ cái thân này do cha mẹ sinh thành, sinh sao để vậy không dám sửa đổi thêm bớt. Bà còn cái răng lung lay, ê nhức muốn nhổ mà sợ tội. Một hôm gặp bác bà hỏi:

– Chú Hai! Nhổ răng có tội không chú?

Bác cười nói:

– Tội mà ít, còn để vậy tội nhiều hơn!

Bà giật mình hỏi:

– Sao vậy chú?

          – Nhổ có đau một chốc là hết. Còn để vậy đau nhức lâu ngày tội cho cái thân nhiều hơn! – Bác trả lời. (

119. MONG GẶP PHẬT

Làm sao tìm gặp người mà mình không biết tí gì về họ cả?

Dù người ấy ở ngay trước mặt hay sống chung với mình, mình cũng chẳng gặp. Vì gặp mà không biết cầm bằng cũng như không.

Chuyện "MONG GẶP PHẬP" dưới đây nói lên cái mâu thuẫn trớ trêu buồn cười của kẻ mong cầu.

Cũng bà Ba thật thà kia hỏi thêm:

– Chú Hai! Tôi tu sở nguyện mong gặp Phật, chú nhắm coi tôi gặp Phật được không?

Bà nghĩ như là Bác có huệ vậy. Bác cười hỏi:

– Mà bà biết Phật ra làm sao không?

– Dạ không biết!

– Không biết làm sao mà gặp. Biết đâu chừng hồi mai này đi chợ, chen vô chỗ đông, bà lấn Phật chúi nhủi mà không hay đó à! (


120. RÈN SỚM

Trong câu chuyện "rèn sớm" nầy, tác giả phân tích ảnh hưởng sai biệt của thời gian đối với vật dụng và trí đức... Vật dụng thuộc về vật chất, bị thời gian làm suy hoại. Trái lại, tài năng và trí tuệ thì thời gian lại giúp tăng trưởng thêm lên. Để giải nghi cho người bạn đối với câu giảng:

"Khuyên người rèn sớm thì xài lâu hư"

Tác giả đề cập câu chuyện sau đây:

Có chú em hỏi Bác:

– Trong Giảng có câu:"Khuyên người rèn sớm thì xài lâu hư." Mà tôi thấy dao mác, cái nào ra lò trước thì cùn lụt trước chứ?

– Ừ! Rèn dao búa thì vậy, rèn trước thì cùn trước. Còn về tài đức trí tuệ không phải như thế. Dụ như chú năm nay đã 60 tuổi mà còn lái honda được là nhờ tập rèn thuở trước. Nếu chưa biết lái thì giờ không tập được rồi!

Rèn sớm thì xài lâu hư là vậy. (


121. ĐỂ CHA MẸ GIÀ KHÔNG CẢM THẤY SỐNG THỪA

"Hiếu là tôn kính,

Thảo là bảo dưỡng."

Người xưa có nói: "Nuôi cha mẹ mà thiếu lòng tôn kính thì lấy gì phân biệt với nuôi gia súc?".

Thế nên người con hiếu, ngoài việc nuôi cha mẹ được ấm no, còn phải ôn dưỡng tâm hồn cha mẹ nữa!

Câu chuyện "Để cha mẹ già không cảm thấy sống thừa!" Nói lên một vài chi tiết nhỏ nhặt của người con hiếu.

Có chú nông dân ở Phú Tân, tay nghề về nông nghiệp rất cao. Chú làm ruộng rẫy ít khi bị thất bại. Tuy vậy, mỗi khi sửa soạn làm mùa là chú hay hỏi ý và bàn bạc với cha, dù ông đã ngoại bát tuần rồi. Muốn đổi giống lúa khác, mua bán lúa, cày sạ, xuống giống, nhứt nhứt chuyện gì chú cũng thỉnh ý cha. Hỏi ý, thảo luận vậy chớ ít khi làm y theo. Vì các cụ đâu theo kịp với thời đại khoa học kỹ thuật tiên tiến như ngày nay.

Sở dĩ chú làm thế để cha mẹ già vui, vì cảm thấy mình còn có chút quyền hạn và hữu dụng đối với con cháu. Đó là lòng hiếu thảo của người con nuôi thân cha mẹ mà còn lo nuôi dưỡng cả tinh thần cha mẹ nữa.

Dẫu rằng kiến thức của các cụ già đã lạc hậu, nhưng nếu con cái đối xử lạnh nhạt, phũ phàng khiến các cụ tủi thân!

Có nhiều người đang cùng nhau bàn bạc chuyện làm ăn, cha hay mẹ già chen vô hỏi: "Bây bàn tính cái gì đó!" Lại vô tình gạt ngang: "(ông hay bà) biết gì mà hỏi vô!" Thái độ ấy khiến cha mẹ tự thấy mình đối với gia đình là một kẻ vô dụng, sống thừa, do đó buồn thân tủi phận lắm!

"Người con có lòng hiếu nên để chút lưu tâm!"

Người xưa có lẽ đã nếm phải vị đắng của tuổi già nên thốt lên lời than thân trách phận: "Đa thọ đa nhục" (tuổi già là một cái nhục). (


122. ÍT KINH SÁCH NÊN ÍT "MAD"

Các bậc Thánh hiền viết sách răn đời hoặc lời dạy của các Ngài, kẻ thừa kế sưu tập lại thành kinh sách lưu để đến ngày nay.

Những điều các Ngài dạy ra đều tùy theo phong tục, tập quán, trình độ và hoàn cảnh xã hội địa phương lúc bấy giờ mà chỉ cho dân biết đạo lý ở đời: "Tùy phong hóa dân sanh phù hạp". (SG).

Ngày nay phương tiện giao thông rất tiện lợi. Người ta có thể góp nhặt các kinh sách đạo đức, triết học, khoa học... khắp đông tây, kim cổ để nghiên cứu học tập. Dĩ nhiên phải có những phương pháp, những triết lý, ý thức hệ sai khác, đối chọi nhau.

Riêng trong lãnh vực Phật Giáo, lắm khi ta vừa gặp được vài điều mới lạ hay ho trong kinh sách liền cho đó là chơn lý tuyệt vời, vội đem ra phổ biến. Do đó thường đụng phải những ý kiến nghịch nhau. Kẻ đề cao pháp môn nầy, người ca ngợi hạnh tu kia, cãi nhau "sanh tử" chẳng hề ngã ngũ. Khách bàng quan nghe cũng muốn điên đầu!

"Bàn với luận đặng coi chơn lý".

Điều đó rất tốt, nhưng bàn luận để tranh hơn, bảo thủ ý kiến mình, để giành lấy phần thắng chỉ luống công vô bổ. Và cãi riết thành như "khùng cả đám". Người xưa đã sớm cảnh cáo:

"Tận tín ư thư, bất như vô thư".

Mẫu chuyện Ít kinh sách nên ít "mad" sau đây là lời nhắc nhở với nhau:

Có chú em thấy mấy vị cư sĩ, hễ gặp nhau thường bàn cãi về đạo lý sôi nổi, có lúc nổi sùng lên cự lộn nhau nữa. Chú ấy gặp Bác Hai mới hỏi:

– Anh Hai, hồi anh còn trẻ mới tu, lúc ấy người tu có hay cãi nhau như bây giờ không?

Bác nói:

– Có, mà ít hơn! Vì hồi đó ít kinh sách nên ít "mad"; còn bây giờ kinh sách quá nhiều thứ, nên "mad" nhiều! (


123. ĐỪNG KHUYÊN !

"Lời nói không mất tiền mua,

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau." (CD).

Lời khuyên can nhau nếu không đúng lúc, đúng chỗ, đúng người thì cầm bằng lời thóa mạ, xỉ vả. Không khuyên can ai điều gì hết, tình người đến thế thì nhạt nhẽo quá đi!

Câu chuyện "Đừng khuyên" nói lên nỗi e ngại và dè dặt ấy!

Có mấy chú thanh niên cư sĩ tu chung nhau trong một Phủ Thờ rộng rãi yên tịnh lắm. Một hôm, một trong số mấy chú gặp Bác Hai, và hỏi:

– Sống chung nhau để tu tập, làm sao khỏi đụng chạm, phiền hà nhau hở Bác?

– Muốn cho êm đẹp thì đừng có khuyên! Bác nói.

– Như vậy, bạn mình có làm điều gì sai trái, sắp sa ngã chẳng hạn, mình cũng mặc kệ sao?

Bác trả lời:

– Nếu mình chưa đủ đức độ, chưa sành tâm lý, tốt hơn đừng khuyên. Muốn khuyên bạn phải biết rõ trình độ, tánh tình và mức độ thân mật giữa mình và người bạn đến đâu rồi sẽ quyết định nên khuyên can hay không, và nên nói gần hay xa, nói nhiều hay ít. Bằng không hiểu được vậy, nếu khuyên càn, sẽ mất bạn và mất lời nữa! Dù lời lẽ cháu khuyên có đúng cách mấy bạn cháu cũng chỉ nghe rằng: "Mầy hư quá, tệ quá, không bằng tao! Mầy xem có phải tao khôn hơn mày hôn?" Mặc dù cháu chưa bao giờ nói lời ấy.

Cháu ấy ngẫm nghĩ một chốc rồi gục gật đầu: "Chắc vậy!" (


124. CÒN QUÁ ÍT

Trước sức tấn công mãnh liệt của địch thủ, người võ sĩ Nhu đạo không bao giờ trángh đỡ mà chỉ nhẹ lách. Thế là bao nhiêu thần công lực của địch thủ rơi vào khoảng trống không, vô tác dụng.

Về mặt tâm lý thì hơi khác. Bác Hai nhận tất cả sự bôi bác nói xấu mình, lại cho là "nhơn tay". Nói chưa thấm vào đâu cái tệ mà mình đã có.

Lối nhận tội nửa hư nửa thật làm xoa dịu sự căng thẳng giữa nhau và đồng thời vô hiệu hóa tác dụng những lời phê phán "cay nghiệt" của kẻ không ưa.

Đó là ý nghĩa của câu chuyện CÒN QUÁ ÍT sau đây:

Có người quen mách lại, ai đó phê bình, nói xấu Bác Hai đủ điều... Kể xong hỏi Bác:

– Người ta nói xấu anh như vậy, có đúng không?

Bác nói:

– Cũng may, họ nói đó hãy còn quá ít. Chứ nếu họ biết cái tệ của tôi như tôi tự biết mình, thì còn có nước độn thổ bỏ xứ luôn! (


125. NHƯ MÙ ĐI ĐÊM

Người Trung Hoa hay có lối nói mạnh để khẳng định điều gì đó, như: "Manh nhơn kỵ hạt mã, bán dạ lâm thâm trì." (Người mù cưỡi ngựa đui, nửa đêm đến gần giếng sâu). Ý nói kẻ liều lĩnh không hiểu biết lợi hại, lại làm những việc nguy hiểm một cách mù quáng thì tai họa khó trángh khỏi!

Thực tế mù đi đêm khó hơn đi ngày nhiều! Nhất là đường chưa quen thuộc. Dưới đây ta được rõ điều ấy do một người mù tự thuật, qua lời kể của Bác Hai:

Một hôm các em cháu bàn luận Sám Giảng. Có cháu nói trong Giảng có câu:

– "Chữ sang danh vọng như mù đi đêm." Đó là một lối nói, chớ mù đi đêm hay ngày gì cũng tối đen như nhau vậy thôi!

Có cháu cư sĩ mù lên tiếng:

– Không phải vậy đâu! Mù đi đêm khó hơn ban ngày nhiều lắm. Đi ban ngày nghe tiếng động trong xóm, tiếng ồn ào chợ búa, trường học v.v... mình đoán định được. Với lại đường sá quanh co có cầu kỳ vậy mà dễ nhận lối đi hơn đường thẳng. Nhất là đi đêm khuya vắng, trời lại mưa rỉ rả, đường bằng phẳng, trong xóm lặng trang không có tiếng động, mình cảm thấy chơi vơi mờ mịt, không biết đây là đâu cả! Thế nên mù đi đêm khó hơn ban ngày!

Ai nấy cùng cười thông cảm và nhận thêm một bài học thực tế mà bấy lâu mình không rõ. (


126. DỨT KHOÁT NƠI LÒNG

Bác Hai kể:

Thuở ấy tôi độ 16 tuổi. Một hôm bà má đang trò chuyện với khách. Em gái tôi đến bên bà nằn nì đòi cái kéo đặng cắt đồ chơi. Bận tiếp khách, bà làm lơ bỏ qua. Em tôi cứ vặt vặt áo của bà và đòi hỏi mãi. Giận quá bà đập tay xuống bàn rút cây thước giơ lên dọa đánh, miệng la mắng: "Có khách mà mầy làm lu bu, kéo dao gì? Tao đập chết bây giờ!" Vừa làm dữ, vừa dằn cái rổ may xóc xóc lên. Tưởng làm gì dữ lắm, không ngờ bà lục kiếm cái kéo đưa cho con.

Tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi thương em lắm, sợ bà má đánh em. Lúc bà giơ thước lên, tôi định bụng để bà đánh một cái cho bớt giận là nhảy lại bế em chạy.

Trái lại, em tôi nó tỉnh bơ, chỉ hơi rụt đầu một chút khi má dọa đánh. Tuy mới 3 tuổi đầu nhưng nó thấy rõ tâm lý của bà. Nó biết bà cưng nó lắm, không đánh đâu! Và nếu cố lỳ đòi hỏi rốt cùng nó sẽ được thỏa mãn yêu cầu.

Chuyện trên cho thấy điểm cốt yếu nằm trong tâm, còn cử chỉ "hì hồ" bên ngoài không thành vấn đề. Em tôi còn bé bỏng nhưng nó cảm thông được mức độ yêu thương của tình mẫu tử. Còn tôi là con ghẻ nên không bắt được tần số ấy!

Chuyện "Dứt khoát nơi lòng" dưới đây cũng tương tợ. Tác giả khuyên đương sự hãy soi rọi lại tận từng sâu thẳm của tâm hồn, để nhận rõ lý do mà đối tượng cứ theo đuổi mãi, mặc dù mình đã lạnh lùng từ chối. Và đồng thời cũng tự biết cách hoán cải sự việc. Và đây là câu chuyện:

Có cô cư sĩ, bị một thanh niên đeo đuổi hoài! Bứt rứt quá cô hỏi Bác Hai, cách đối xử sao cho người ta khỏi theo quấy nữa! Bác đáp:

– Hãy dứt khoát nơi lòng mình, tức người ta không theo nữa! Bác có người bạn, bị cô vợ ghen quá xá! Vợ chồng đánh lộn gây gổ liên miên. Chán quá anh định bỏ vợ. Khi đã hạ quyết tâm, anh đối xử với vợ thật ngọt ngào, có tiền đưa hết cho vợ, bảo sắm sửa quần áo, nữ trang v.v… Thế mà chị vợ lại sợ anh bỏ. Và rốt cuộc họ chia tay thật!

Nếu mình đã dứt khoát nơi lòng, thì dù đối xử ngọt ngào như đường người ta cũng biết không có hy vọng gì. Còn lòng mình chưa dứt hẳn, dù có chửi họ, họ cũng theo đuổi mãi. (


127. TU SAO KHỎI SÓNG GIÓ

Gió không dịu giọng với cây sồi vĩ đại. Sở dĩ nó không ngã rạp như lao sậy vì cành to, thân rắn và rễ sâu. Nhờ thế nó đủ sức đương đầu với bao mưa gió phũ phàng.

Có ai bình lặng được phong ba cho thuyền ra khơi êm ả!

Có ai dẹp phá hết gốc gai cho đoàn thám hiểm lội suối, trèo non khỏi chồn bước phiêu lưu.

Ước mong của vị cư sĩ hỏi: "Tu sao khỏi sóng gió" sẽ không bao giờ có được.

Chỉ còn cách tự trui rèn nhẫn lực, gan lì chịu đựng với các thử thách gian lao thôi.

Mời quý vị theo dõi mẫu chuyện đối đáp sau đây:

Bác đến chơi nhà chú em làm thợ mộc. Chú ấy mở lời:

– Lâu quá mới gặp Bác. Nhờ Bác chỉ cách tu sao cho khỏi bị sóng gió?

Bác nói:

– Chú làm thợ mộc đóng ghe mà không biết sao? Đóng loại ghe đi sông, biển phải liệu lượng làm hầm lõa, mui liền hoặc lên be gió cao để chịu đựng với sóng gió, chứ làm thế nào ngăn được biển trời đừng nổi phong ba! Người tu cũng vậy, phải mặc áo giáp nhẫn nhục để lướt qua những thử thách, những va chạm với đời, chứ làm sao cấm cản không cho thiên hạ gây sự với mình!

Được vậy mình sẽ thấy yên tâm và chướng ngại sẽ giúp mình trưởng thành trên đường tu tiến! (


128. CÁI BỨT RỨT !

"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?" (Kiều)

Muốn xóa tan cái buồn phiền bứt rứt, phải tìm hiểu chính xác coi nó nằm ở đâu. Bấy giờ ta mới xua đuổi nó được. Ngược lại, nếu không rõ nguyên lai thì các việc chống đối ngoại tại chỉ là "Đau nam chữa bắc" nào có kết quả gì!

Chuyện "CÁI BỨT RỨT" dưới đây nêu rõ tình cảnh ấy:

Có lần đi xe từ Long Xuyên lên Năng Gù, Bác phải ngồi chung băng với hai thằng thanh niên say rượu. Một thằng còn hơi tỉnh dìu thằng bí tỉ. Xe chật mà nó ngồi chàng hàng không chút khiêm tốn. Lại hễ xe vượt tới nó ngã qua, xe thắng, nó nhào lại, chúi vào người mình. Hơi rượu xông nồng nặc! Bác bứt rứt quá, nhưng thấy thằng bạn nó ngồi ôm và hết lòng nâng đỡ nó,ù Bác chợt thấy cái bứt rứt nằm ở trong lòng ưa ghét của mình chứ không phải ở thằng say. Nếu cái bực dọc ở nơi thằng say, sao bạn nó ôm dìu nó được!

Nghĩ vậy, Bác đổi quan niệm, xem nó như cháu ruột mình tự nhiên sự bứt rứt tiêu tan! (


129. KHỎI THEO HÒA HẢO

Có một thi sĩ vốn là con chiên ngoan đạo, làm một bài thi "Tìm Chúa".

... Tôi tìm Chúa bấy lâu không gặp

Tôi gọi Chúa, Chúa không đáp lời.

Tôi quay lại với người anh em,

Tôi gặp Chúa trong tất cả...

Từ lâu sống trong đau khổ, thi sĩ tìm Chúa trên trời mong được chở che. Sau cùng anh nhận ra:

"Thiên Chúa là tình thương và Chúa đang ngự trong lòng người."

Thầy Nhất Hạnh cũng từng nói Thầy gặp nhiều Phật tử chưa hề biết đến Phật. Thầy muốn nói những ai sống đúng tinh thần giác ngộ, từ bi thì họ là Phật tử rồi.

Đức Phật bảo: "Ta rất vui khi thấy đệ tử Ta lo làm lợi ích cho quần sanh, dù vị ấy không hề nghĩ đến ta."

Là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, chúng ta từng được nghe lời dạy của Tôn Sư... "Làm thế nào phát hiện được những đức tánh cao cả và thực hành trên thực tế bằng mọi biện pháp để đem lại cái phước lợi cho toàn thể chúng sanh..."

Đứng trên bình diện này mà nhìn, ta sẽ thấy biết bao nhiêu là tín đồ PGHH khắp trên thế giới, dù những người ấy không biết gì về đạo PGHH cả. Và câu Sám Giảng... "Khắp bốn biển liên giây Hòa Hảo." Rất có thể tin và giải thích được.

Câu chuyện "KHỎI THEO HÒA HẢO" dưới đây nói lên tinh thần cởi mở hòa vui trong việc đặt sự lợi ích xã hội lên trên cả tường rào của ý thức hệ lẫn giáo điều:

Hồi mấy năm mới hòa bình, nhà nước phát động phong trào thủy lợi rất mạnh. Mấy anh em cư sĩ ở chùa Bình Thủy tận lực đóng góp công và của trong việc đào kinh đắp lộ. Sau khi hoàn thành tốt công tác ấy, Ủy Ban Xã tổ chức tiệc liên hoan. Ông Bí Thư xã muốn khích lệ và ngợi anh em ở chùa nên nói đùa với vị đại diện trong chùa.

– Chú Ba à! Tôi rất thích tinh thần xã hội của anh em quá. Tôi cũng muốn theo Hòa Hảo được hôn chú?

Chú Ba ấy đáp:

– Thưa ông Bí Thư, theo ý tôi thì ông khỏi theo Hòa Hảo. Ông chỉ cần làm theo lời Bác dạy: "Trung với nước, hiếu với dân" thì ông cũng là Hòa Hảo rồi. Còn chúng tôi lo đền đáp Tứ ân, làm tròn nhân đạo theo lời Đức Thầy tôi dạy thì chúng tôi cũng là người Cách Mạng rồi.

Câu đáp rất dung hòa, ai cũng hài lòng. (


130. TRẺ CON NÓI CÓ ĐÚNG ?

Có nhà hiền triết nói: "Tôi treo tấm bảng ghi:"Ai vào nhà tôi, xin hãy bỏ các quan niệm truyền thống bên ngoài". Không một ai đến cả!"

Đành rằng chúng ta phải học hỏi những kiến thức, kinh nghiệm của người trước. Nhưng có phải chăng, kiến thức quan niệm xưa đều đúng cả? Như quan niệm rằng: "Trẻ con luôn nói sự thật, dù có hại cho cha mẹ nó, nó cũng không hề biết đặt điều dối trá hay dấu diếm".

Câu chuyện "Trẻ con nói có đúng sự thật?" dưới đây là chuyện có thật. Tuy nó chưa đến đỗi gây đau thương cho đương sự nhưng cũng là một sự cảnh giác. Chúng ta nên xét lại về những quan niệm được truyền thừa của xã hội, của người xưa. Và hãy buông bỏ đi truyền thống, quan niệm để nhìn thấu rõ sự thật.

Mời quí vị cùng theo dõi câu chuyện:

Có một lần chính Bác chứng kiến:

Em bé độ 3 tuổi, được ba mẹ cưng lắm! Làm cái khoen vàng 24K cho nó đeo. Bữa nọ, con nhỏ lối xóm dụ cho ăn mận và lột khoen của nó dấu đi.

Hay mất khoen vàng, cả nhà gạn hỏi bé. Nó ngẩn ngơ giây lâu rồi quả quyết:

– "Dì Bảy con lấy! Dì lấy của con ở trong buồng đó!" Rồi nó quay sang nói với Dì:

– "Dì không trả con về méc ba cho coi!"

Dì Bảy nó đã tới giờ đi học. Vừa đi vừa than:

– "Nếu không kiếm ra được chiếc khoen chắc bữa nay tôi phải bị đòn!"

Lát trưa, nhờ mấy đứa lối xóm làm chứng nên con nhỏ ăn cắp khoen phải trả lại.

Chuyện bình thường thôi, nhưng có điều chúng ta hay quan niệm rằng "Con nít nói là đúng sự thật" bây giờ nên XÉT LẠI! (


131. VỪA VỚI LƯƠNG TÂM

"Biết sao cho toại lòng dân,

Kẻ ưa đạo đức, người cần vinh hoa"(SG).

Bởi nhu cầu riêng tư, người trông mưa, kẻ cần nắng. Trời còn không làm vừa lòng người!

Đứng về mặt thương mại cạnh tranh, người ta có cả 1001 mánh khóe câu khách. Nhưng trên bình diện đạo đức tu hiền thì phải chào thua.

Mời quí vị nghe chuyện Mua bán làm sao vừa lòng tất cả khách hàng. Ở đây, tác giả không đề ra một phương cách nào cả, chỉ khuyên đương sự làm sao cho lương tâm không ray rứt mà thôi!

Câu chuyện bắt đầu như sau:

Có cháu kéo xe đẩy bán rau cải. Một hôm gặp Bác Hai hỏi:

– Mình mua bán làm sao cho vừa lòng khách hàng được hở Bác?

Bác nói:

– Vừa với lương tâm mình, chứ làm sao vừa với khách được. Khách hàng, cháu cho không họ cũng còn so bì chê khen và mất lòng như thường. Hồi trước, Bác bán củi tràm có hai cô mua mỗi người 5 tấc. Khi chất củi từ dưới đất lên dần trên thì dây dạt ra đến 7 tấc. Nghĩ cây nhà lá vườn nên Bác cho luôn. Cô mua trước lấy củi xong. Bác rút dây lại cho đúng 5 tấc. Khi chất củi dây cũng giãn ra đến 6 tấc. Bác cũng kệ, cho luôn! Thế mà cô sau lại không chịu và nói: "Ít hơn cái trước!" Bác hỏi: “Cô mua mấy tấc?” “5 tấc! Cô trả lời.”

“Vậy đây là 6 tấc cô còn chưa chịu là sao?

Cô ta lấy củi đi nhưng tức giận lắm!

Việc mua bán chỉ vừa với lương tâm mình thôi, khó mà vừa lòng tất cả khách hàng được. (


132. NẾM THỬ MỘT LẦN

Sự tu thân chứng,

Nhi hậu tín chi!

Phàm việc gì cũng phải thân chứng sau mới tin.

"Đời là khổ nhưng khó học suông bằng lý thuyết".

Không có đứa trẻ nào tin nhận lửa là nóng, do sự dạy bảo của người lớn cả.

Nhưng, bất câu bài học nào cũng có cái giá phải trả của nó. Có điều trả học phí đắt hay hời tùy theo khả năng của mỗi người.

Có thể nào học khỏi học phí?

Có! Học lóm ấy! Nhưng đòi hỏi học viên phải khá thông minh, chứ thường thì học lóm chắc không mấy được rành rẽ.

Chuyện "NẾM THỬ MỘT LẦN" sau đây nói lên cái tâm lý chung ấy.

Có cô ở Long Xuyên, lúc xuân thời quá khổ vì tình duyên! Do đó cô có ý định không lập gia đình cho các con, để khuyên bảo nó lo tu. Vì sợ chúng sẽ phải đau khổ như cô!

Bác Hai nghe vậy nên góp ý:

– Bổn phận làm mẹ phải gầy dựng gia thất cho con cái. Còn việc khổ vui thì tự nó gánh chịu chứ đâu có cấm đoán nó như vậy được. Nhất là việc hôn nhân rất hệ trọng. Bác kể cho cô nghe:

"Hồi nhỏ tôi giữ em, tôi hay chơi đánh búng với mấy nhỏ lối xóm. Ngặt điều thằng em cứ bườn tới chụp cái đèn dầu hoài! Một tay tôi vừa xô nó, một tay tôi búng thường bị thua. Đẩy bé ra xa, búng được vài cái là nó bò tới rồi! Tức quá, tôi nghĩ ra một kế: "Tôi cầm tay nó ịn nhanh vào ống khói đèn một cái." Nóng quá, bé sợ! Sau đó, tôi đẩy nó vô đèn, nó rụt lùi lại không dám mó đến nữa."

"Hãy để nó nếm thử một lần" cho nó biết.

Cô ấy nói:

– Cái gì thì cho nếm thử được, chứ chuyện tình duyên chồng vợ nếm một lần là tiêu đời rồi!

Bác nói:

– Tiêu thì tiêu, chứ trên trường đời chẳng thể học suông bằng lý thuyết được. Không lý do gì mà không cho con cái lập gia đình. Bởi đấy là định luật thiên nhiên của Tạo Hóa.

Và rốt cuộc vì hoàn cảnh thúc đẩy cô cũng đành chịu gầy dựng gia thất cho các con thôi! (


133. TU VẬY CÒN CHƯA THẤY GÌ !

Trong chốn Thiền môn có câu chuyện khá lý thú. Có bà lão hết lòng cung phụng cúng dường một vị sư tu hành ngót 20 năm. Một hôm bà bảo con gái mình vào liêu tỏ tình để thử thách sư. Sau đó cô gái trở về thuật lại với bà già rằng vị sư chỉ nói:

Khô mộc ỷ hàn nham

Tam đông vô noãn khí

Nghĩa: – Cây khô dựa vào vách núi

Ba mùa đông không có hơi ấm.

Bà lão bực tức:

– Uổng cơm gạo nuôi sư bấy lâu, tưởng sư sẽ thành Tiên, thành Phật, dè đâu thành gỗ đá.

Có số người theo hướng tu như thế. Họ cố diệt mất tình người, cắt lìa ân nghĩa, cho lòng rỗng rang vắng lặng. Chưa thấy những người không nghĩa, không ân, không tình, không cảm ấy có được chút niềm an lạc nào cho đời mình chăng?

Mà tình cờ nghe vị cư sĩ ấy thốt lên một câu vừa tự hào cũng vừa than thở: "Tu vậy còn chưa thấy gì!!!"

Đó cũng là tên câu chuyện kể dưới đây:

Có một cô rời quê nhà vào tu ở chùa mấy mươi năm rồi. Một hôm cô ốm nặng, nằm bệnh viện. Có chị bạn là cư sĩ thương tình đến chăm sóc giùm. Lúc cơn bệnh hoành hành, bệnh nhân đau đớn oằn oại, người bạn nuôi hộ xúc cảm rơi lệ! Bệnh nhân tuy bệnh làm xung chớ còn thấy biết.

Hôm sau khỏe lại bệnh nhân mới hỏi:

– Hôm qua em thấy chị khóc hả?

– Ừ! Thấy em đau khổ quá mà lại cô đơn không thân quyến giúp đỡ, chị xúc động nên khóc!

– Chị tu lâu quá mà còn dở vậy! Em nha, mỗi lần về thăm nhà, mẹ mừng lắm, làm đồ ăn đủ thứ, cố cầm em ở lại thêm vào hôm, mà em không theo ý bà đâu! Hễ em nhất định 5 ngày là 5 ngày, 7 ngày là 7 ngày không thay đổi. Lúc đi, bà đưa tiễn đứng trông đến mút mắt. Vậy mà em quyết định đi là không bịn rịn gì cả! Tu vậy còn chưa thấy gì!

Chị bạn đáp:

– Ừa! Tu vậy nên chưa thấy gì! (


134. NHƯ LÀ LẦN CUỐI

"Tình thương đến lúc chia tay mới dò đúng chiều sâu của nó." (Khalil).

Lúc chia tay mà ta nghĩ cũng là lần cuối gặp nhau, sẽ rất nhẹ nhàng hòa dịu cảm thông.

Đặt mình trong trạng thái "Như là lần cuối" thì mọi việc từ tín ngưỡng chí đến hít thở, ăn uống, nói làm đều tuyệt vời êm ái. Nhìn cảnh vật tràn đượm nghĩa tình. Trần gian này vô cùng phong phú thắm tươi.

Như là lần cuối khiến ta sống trong vĩnh cửu, dịu dàng thân thiết ngay phút giây hiện tại; không sống nửa vời, thân ở đây mà hồn lạc lõng tận đâu đâu!

Và đây là chuyện NHƯ LÀ LẦN CUỐI:

Mấy cháu hỏi bác:

– Mình cúng làm sao lòng được chí thành tha thiết đúng nghĩa của thời cúng?

Bác bảo:

– Muốn được vậy, mỗi chiều cầm nhang lên hãy nghĩ: "Đây là lần cúng cuối cùng! Biết đâu đêm nay mình sẽ chết! Sáng cũng nghĩ biết đâu ngày nay mình gặp tai nạn gì đó phải lìa bỏ cõi đời!" Nếu nghĩ là lần cuối cùng thời cúng sẽ nghiêm trang tha thiết. Bởi cái gì là lần cuối cùng cũng đẹp cả. Dụ như ăn cơm mà nghĩ đây là bữa cơm cuối cùng, bữa cơm ấy sẽ ngon tuyệt! Con người gặp nhau lần cuối sẽ đối xử nhau rất đẹp, sẵn sàng nhường nhịn tha thứ vì từ đây không còn gặp nhau nữa.

Vả như vì lý do gì đó mình phải lìa xứ ra đi không bao giờ trở lại, lúc đó mình nhìn lần cuối từ mảnh vườn, nhà cửa, con đường chí đến cây cỏ, tất cả đều như có hồn, đều đẹp đẽ thân thiết biết bao nhiêu!

Với cái nhìn ấy cõi đời này sẽ vô cùng phong phú!


135. THỞ LÀ HẠNH PHÚC

Sư Lương Khoan (Thiền sư Nhật Bản), có hôm đang trên đường về chổ ở của mình. Ông móc trong đãi ra một đồng tiền rồi ném xuống đất, rồi cúi lượm. Lập đi, lập lại cử chỉ ấy mấy lần, rồi ông lẩm bẩm: "Mấy đứa trẻ bảo lượm được tiền khoái lắm! Thế mà có khoái gì đâu?" Vừa nói ông vừa tiếp tục ném tiền. Lần này ném hơi mạnh, đồng tiền trúng đá văng đâu mất. Ông vừa kiếm vừa nói: "Chà, thế này thì bực thật!" Tìm hồi lâu, may sao gặp được, ông mừng rỡ xác nhận: "Lượm được tiền khoái thật!".

Thông thường cái gì hiện hữu quá, đầy đủ quá, chúng ta xem thường nó, đến khi bị mất mát đi, ta mới thấy quý giá và hối tiếc thì đã quá muộn màng!

Giả như, không may ta gặp rủi ro tổn thương tật nguyền, bây giờ ta mới ước ao sao mình đặng lành lặn như xưa thì hạnh phúc biết bao!

Thế mà hiện tại mấy ai cảm thấy hạnh phúc vì mình đang lành mạnh?

Câu chuyện "Thở là hạnh phúc" nhắc nhở ta an hưởng hạnh phúc đang sẵn có, đừng bỏ qua uổng phí biết bao và cái gì qua rồi e khó tìm lại được!

Chuyện kể như sau:

Bác có người quen đi xe đò lên thành phố. Đến Cai Lậy, xe bị sự cố đâm xuống ruộng, lật chỏng bánh lên trời. Ruộng cấy, nước không sâu lắm, nhưng xe bị lún xuống bùn, hành khách lúng túng trong xe. Nhờ nhóm thợ cấy gần đó ùa lại tiếp cứu. Những người cứu ra sau đều bị ngộp thở, bất tỉnh phải hô hấp nhân tạo. Riêng người bạn bác được kéo để nằm trên bãi cỏ, chưa kịp làm hô hấp. Anh nằm một hồi tự nhiên thở khì được một cái, anh nói: "Nó khỏe lạ thường, chưa từng có!" Anh nằm yên thật lâu để thở cho đã! Từ nhỏ đến giờ mình thở hoài mà không thấy nó quý và sung sướng như vậy! Nay mới cảm nhận được".

"Thở là hạnh phúc" rồi!

Hạnh phúc không có giới hạn thực thể. Do quan niệm của mỗi người tự quy định nó như thế nào đó là hạnh phúc hay đau khổ. Đúng ra, thở cũng là hạnh phúc rồi. Nhiều người bị lên cơn suyễn, thở khó nhọc vô cùng! Mình thở thoải mái như vậy hạnh phúc biết bao! (


136. NHƯ MỘT NGỌN ROI

"Thọ tài như thọ tiễn." Vì thọ nhơn tài ắt phải cứu nhơn tai, mà biết mình có kham nổi chăng?

Người xưa rất dè dặt trong việc thọ nhận tài vật của người khác tặng mình. Vì thông thường mỗi tặng phẩm đều có ngầm đặt điều kiện.

Người tu hành chơn thật hiền lành cũng được đồng đạo giúp đỡ về vật chất. Tuy không đòi hỏi sự thù đáp nhưng cũng ngầm khuyến khích tiến tu. Thế nên tác giả ví tặng phẩm ấy như một ngọn roi, bắt buộc con ngựa phóng tới, và câu chuyện như sau:

Bác xem tặng phẩm đến với mình, như ngọn roi quất vào mông ngựa, giục nó phải tiến lên! Bác không nghĩ tặng phẩm là một diễm phúc, hãnh diện, mà xem như động cơ thúc đẩy mình vươn lên thế nào cho xứng đáng với niềm tin yêu của người tặng.

Bác thường trình bày quan niệm trên và từ chối các quà biếu của em, cháu.

Có lần một cháu mang giùm mấy mét vải của người quen gởi tặng bác. Bác không nhận nó nài nỉ mãi:

– Lỡ rồi, mang trả tới trả lui mất công quá và người tặng cũng buồn nữa. Thôi bác rángg nhận một roi nữa đi!

Nghe nó nói có duyên bác nhận thêm một roi nữa! Mãi đến nay đã hai năm rồi cũng chưa có dịp cần dùng đến xấp vải ấy. (


137. CHỚ LẦM NHÂN QUẢ

Kinh Sám Hối Cao Đài có đoạn nói về Nhân Quả trớ trêu:

"Người làm phải có khi mắc nạn,

Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang".

Trước cảnh trái ngang ấy khiến nhiều người hoài nghi Luật Nhân Quả, Kinh văn giải thích:

"Ấy là nợ trước còn mang

Duyên kia chưa dứt còn đang thưởng đền".

Đúng như thế:

"Nghiệp chưa sạch đành câu khổ báo,

Nợ xong rồi ai bảo trả thêm?"

Tìm hiểu chính xác về lý Nhân Quả 3 đời cùng sự liên quan chằng chịt lẫn nhau giữa những nhân và quả ồ ạt đến cho mình đề có đủ niềm tin sáng suốt gây dựng mùa vụ tới tốt đẹp hơn.

Câu chuyện CHỚ LẤY NHÂN NÀY ĐẮP QUA QUẢ KIA cùng nói lên ý nghĩa trên!

Có đứa cháu hỏi:

– "Thưa bác, con thấy nhiều người tu chín chắn, công phu dày dặn sao hay gặp nhiều bệnh tật quá khổ. Ông chú con tu hiền tha thiết lắm mà sao bây giờ ông bị tai biến mạch máu, liệt nửa người! Sao lạ vậy Bác?"

Bác đáp:

– Đừng lấy nhân này đắp qua quả kia lộn xộn, không đúng! Dụ như, ông nông dân A năm rồi làm ruộng nhiều, lúa dư cả ngàn giạ. Năm nay ông nghỉ làm, lo ăn nhậu trác táng. Thế mà cuối năm ông còn dư được vài trăm dạ. Không thể bảo rằng ông A nhờ ăn chơi phung phí nên có lúa dư.

Còn ông B năm rồi không canh tác gì hết. Năm nay túng thiếu nên rángg lo mướn ruộng thêm, tận lực cày cấy. Thế mà cuối năm ông phải vay lúa để ăn, vì mùa thu hoạch chưa đến! Ta không thể bảo tại ông B quá lo làm ruộng nên mới nghèo khó như vậy.

"Hãy xét câu nhân quả ba đời".

Người xưa có bảo:

"Muốn biết cái nhân đời trước nên xem sự thọ quả hiện tại".

"Muốn biết cái quả đời sau nên xem tạo nhân hiện tại".

Cổ tích Phật giáo có câu chuyện:

Một thanh niên nọ đến xin với vua Ba Tư Nặc để anh ta lãnh làm thịt dê cho trong Hoàng Cung dùng. Ở Ấn độ, nghề làm hàng thịt còn hạ tiện hơn giai cấp Nô lệ nữa. Vua hỏi:

– Nhà ngươi không có nghề gì khác để sinh sống sao, lại xin làm nghề ấy?

Anh ta đáp:

– Tâu Bệ hạ! Tôi nhớ lại tiền kiếp tôi, làm hàng dê nên sanh lên cõi Trời được hưởng phước rất lâu. Mãn phước đầu thai xuống thế, tôi cũng làm hàng dê, và sau khi thác lại sanh lên cõi trời cao hơn và hưởng phước gấp đôi. Cứ như thế đã 6 lần lên xuống cõi trời và phước báo cũng tăng thêm mãi. Thế nên kiếp này tôi quyết theo nghiệp cũ để được sanh Thiên.

Vua nghe trái lý! Mà chả lẽ tên dân hèn mọn lại dám dối vua? Vua đem chuyện trên hỏi Phật.

Phật bảo:

– Tên hàng dê ấy không dối đâu, nó nhớ tiền kiếp thật. Duy có điều nó không rõ nhân duyên nào được sanh thiên: Nguyên kiếp trước tiên nhờ có lòng thành kính cúng dường lễ bái một vị La Hán nên được phước báo 6 lần trở lại cõi Trời (lục phản sanh Thiên) vô cùng vui sướng. Đến kiếp thứ 7 này nó phải đọa địa ngục để đền trả sát nghiệp của nó.

Nhận định sai lầm về Nhân Quả rất nguy hại!

(Thật ra câu chuyện này chỉ có tính cách tượng trưng chứ không có tính lịch sử. Người có từng gieo duyên với bậc Thánh thì qua nhiều kiếp vẫn được sự nhiếp hóa âm thầm nào đó– CQ) (


138. MẮC NIỆM PHẬT

Phật có bốn đại đức: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Lúc nào cũng ban vui cứu khổ cho đời. Phật tử niệm Phật để nương theo lòng từ bi của Phật mà tu hành. Nay vì mắc bận niệm Phật không thể hiện lòng từ bi, không dấn thân vào việc nghĩa nhân thì đó là một nghịch lý, khiến người khác phải thắc mắc! Như câu chuyện MẮC NIỆM PHẬT dưới đây:

Có cháu gái thích gần gũi quí vị cư sĩ lắm! Bởi mấy dì nó cũng là cư sĩ. Một hôm, mấy cô định vô thất niệm Phật. Trong nhóm có một cô ngã bệnh. Mấy cô kia bảo nó:

– Cô A bị bệnh, cháu rảnh nuôi giùm, còn mấy cô đây "mắc niệm Phật!"

Nghe câu nói không ổn, nó đem chuyện kể với Bác:

– Con rất sẵn sàng giúp đỡ mấy dì, mà sao con nghe câu "mắc niệm Phật" hơi là lạ! Con thắc mắc mãi?

Sự thật, nó không rõ tại sao lòng nó cứ thắc mắc câu ấy. Nhưng trong thâm tâm chắc nó nghĩ là người biết niệm Phật lẽ ra phải gánh vác việc nghĩa ân đó. Chứ không phải mắc niệm Phật nên không nuôi bạn mình đang lâm bệnh. Nó lấy làm lạ là thế. Có điều nó không lý giải được! (


139. SAO KHÔNG NHỚ Ở NHÀ TRÊN

... "Buồn vui thường đắp đổi,

Trải bao lần đầy vơi.

Biết phải cười hay khóc,

Tan hiệp giữa dòng đời." (Như Sanh)

Trời còn có đêm, sáng tối, nắng mưa, nóng lạnh đổi thay.

Biển trần luôn biến động. Những đợt sóng thăng trầm vui khổ nhục vinh dồn dập đến rồi đi, để lại trong lòng người những dấu ấn khó quên.

Nhưng chúng ta, có kẻ nhớ lại những việc không may thì mừng cho mình đã thoát qua cơn bỉ cực. Nhớ đến việc may mắn tốt lành thì vui vì định mệnh vẫn còn ưu đãi phần nào cho thân phận và gắng vun bồi thêm nồng độ nghĩa tình. Kẻ ấy thường đến với hoa hồng!

Có kẻ nhớ lại việc không may để buồn than số phận hẩm hiu; nhớ đến cái may để nuối tiếc âu sầu. Vì ngày vui qua mất như tên bay không trở lại. Kẻ ấy thường đến với bụi gai!

Có câu tư tưởng:"Người ta thường chỉ cười được vài giờ, mà có thể khóc suốt mấy ngày liền. Vì ta phải nhờ kẻ khác chọc mình cười, còn chính mình chọc cho mình khóc!"

Câu chuyện "SAO KHÔNG NHỚ Ở NHÀ TRÊN" cho ta biết, mình là đạo diễn vở tuồng đời của mình và có đủ thẩm quyền thay trắng đổi đen!

Câu chuyện như sau:

Một cô nọ có chồng và đã ra riêng. Mỗi lần nhà cha mẹ chồng có đám giỗ, cô đều mua đồ đạc đem về sớm ít hôm để tiếp lo cúng giỗ. Năm đó vì bận việc nên đến ngày chánh giỗ cô mới về tới.

Vừa bước vào nhà trước, cô bác xúm lại mừng rỡ hỏi han tỏ ý lo cho gia đình cô, chẳng biết có vấn đề gì không mà chưa thấy về v.v... Trước sự niềm nở ân cần của cô bác làm cho cô rất cảm động.

Đến khi vô tới nhà sau, nghe dưới bếp xầm xì:

"Có mợ thì chợ cũng đông,

Không mợ chợ có bỏ không bao giờ!"

Nào là: "May quá! tưởng năm nay chả có gì để cúng cho ra vẻ v.v...

Nghe những lời châm chích của chị em chồng và bạn dâu, cô buồn vô hạn. Chuyện qua rồi mà mỗi lần nhớ lại lòng vẫn xót xa!

Người chị bạn của cô ấy gặp Bác nói:

– "Con trông gặp Bác nhờ Bác khuyên giúp cho cô ấy bớt buồn mà chưa có dịp."

Bác nói nhắn:

– Sao không nhớ chuyện cô bác ở nhà trên niềm nở cho nó vui, để nhớ những câu châm chích ở nhà sau làm chi cho thêm sầu hận! (


140. CHỈ NỘI BỐN CUỐN

Anh thợ chẻ đá đục một hàng lỗ nhỏ trên một phiến đá. Anh bắt đầu kê lưỡi đục vào mỗi lỗ, dùng búa đóng nhẹ một cái. Anh cứ đóng qua lại như thế hồi lâu rồi anh để lưỡi đục vào lỗ ngay giữa phiến đá, đóng mạnh một cái. Phiến đá tách làm đôi.

Người hàng xóm đứng xem, ngạc nhiên nói:

– Sao anh không để ngay giữa đục một cái cho tách ra mau, cần chi đục tới lui cho nhọc?

Anh thợ đá cười bảo:

– Nãy giờ không có búa nào vô ích cả! Nếu không có những lần đục trước thì chẳng bao giờ búa cuối cùng này tách đá ra được.

Các sự việc trên đời không đơn thuần, cái gì cũng có nhiều yếu tố hợp thành. Việc tu hành cũng thế. Tất cả các cố gắng trên đường lành đều đóng góp vào phút giây giác ngộ của hành giả. Tánh cố chấp vào một việc nhỏ, sẽ làm mất đi hàng trăm việc khác. Chuyện "Chỉ nội bốn cuốn" rất ngắn, cho thấy rõ thành kiến cố chấp rất nặng nề, rắn chắc như cái mai rùa. Nó có bảo vệ phần nào sự va chạm cho rùa nhưng suốt đời rùa phải mang nặng cái mai và chịu cảnh "Chậm như rùa!".

Câu chuyện được kể:

Một ông lão đến chùa Từ Quang thấy mấy cháu đang xem sách nói về Đạo Phật. Ông cầm một quyển lên xem. Bác Hai thấy vậy nói:

– Sách này người ta ấn tống. Ông muốn xem lấy một quyển để xem!

Ông ta đáp lại một cách khẳng định:

– Tôi chỉ coi nội 4 cuốn Sám Giảng của Đức Thầy là đủ rồi, còn ai hơn Thầy nữa mà mình phải tìm xem!

Bác nói:

– Đâu đợi tới 4 cuốn. Trong Sám Giảng của Đức Thầy mình trích một đoạn hay vài câu nào đó, rồi rángg hành đúng theo cũng quá đủ rồi!

Ông ấy mừng rỡ tưởng là gặp đồng minh. Kỳ thật Bác Hai phản bác ý kiến quá bảo thủ của ông ta đấy!

Đức Thầy nếu chưa vắng mặt, hẳn Ngài còn trước tác thêm nhiều. Và xưa Đức Phật cả 49 năm trường thuyết pháp, trong khi hành giả chỉ cần hành theo bài kệ 4 câu (tứ cú kệ) cũng đủ!

"Thượng căn chỉ độ một dòng,

Hạ căn độ phải mấy chồng kệ kinh" (TS)

Chúng mình chắc thuộc loại đại hạ hạ!!! (


141. TÌNH YÊU

Tình yêu từ ngàn xưa đến nay đã làm con người rơi rớt biết bao nhiêu lệ thảm. Lắm kẻ vì tình phải mang vết thương lòng rỉ máu đến suốt đời. Do đó các nhà đạo đức dựng lên những rào chặn để bảo bệ con tim khỏi bị tổn thương. Nhưng đồng thời nó cũng hạn chế sự nảy nở của con tim.

Đức "Từ Bi" chính là tình yêu phát triển đến vô biên. Người Phật tử lấy từ bi và trí tuệ làm đôi cánh tung bay đến vùng trời giải thoát. Chớ vặt hết lông cánh để phải bò lê trên đất.

Tình yêu có dứt được không?

Mời quý vị nghe câu chuyện "Làm sao dứt được tình yêu?"

Có một cháu nói với Bác:

– "Con thấy đời sống của mấy bác thong dong tự tại, khỏi bị gia đình đùm đeo con thích quá! Nhưng chắc con theo không nổi. Tu được ngày nào hay ngày nấy! Làm sao dứt được tình yêu hả bác?

Bác đáp:

– Tu, không có nghĩa là sống độc thân. Với lại tình yêu là sẽ sống. Sống không có tình yêu như cây khô hết nhựa. Tình yêu không phải là xấu đâu. Có điều nếu nó chỉ quẩn quanh trong khung sườn vị ngã, ích kỷ nhỏ nhen thì phải bị đảo điên phiền não.

"Tình trường đầy dẫy thi hài". (SG)

Ngược lại nếu nó vươn lên vùng trời cao rộng bao la người ta sẽ trở nên vĩ đại với nó".

"Tình yêu chan chứa trên hoàn vũ". (SG)

Nó không nhằm vào một đối tượng riêng lẻ nào:

"Yêu khắp muôn loài, khắp chúng sinh" (SG).

"Đời được chia làm hai nửa. Một nửa là băng giá; nửa kia là ngọn lửa hồng, mà chính tình yêu là ngọn lửa ấy" (KhaliL).

Không thể diệt tình yêu được, phải nới rộng cho nó thành đức Bác Ái Từ Bi.

Thế nên muốn khỏi yêu một người đẹp, ta phải yêu cả muôn loài vạn vật. Do đó chúng ta:

"Không thể yêu riêng khách má hồng" (SG).

Đến đây chúng ta sẽ thương được những kẻ khó thương, làm được việc khó làm và bỏ được điều khó bỏ.

Bác hai vừa giải bày một sự việc quá với tầm vóc của mình, các em cháu thông cảm cho nhé! (


142. LẶNG TÂM

Có nhà học giả chuyên nghiên cứu các sách vở dạy về nghề hàng hải, vượt biển. Trong làng ông có nhóm người đi buôn bằng đường biển. Viên thuyền trưởng thường đến tham vấn học hỏi với ông về cách thức vượt trùng dương. Cả làng ai cũng phục tài hiểu biết của ông.

Một hôm kia, hàng hóa xuống thuyền xong, sắp ra khơi, viên thuyền trưởng rủi bị bạo bệnh, không đi được! Nhóm hải thuyền đến cầu thỉnh ông giúp đi thay một chuyến. Trước sự khẩn cầu và lòng tôn trọng của mọi người, ông buộc lòng đi thế. Chuyến ấy không may gặp giông bão lớn. Vì thiếu kinh nghiệm thực tế, ông không thể điều khiển. Thuyền đắm, mọi người bị thiệt mạng!

Người xưa từng nhắc nhở ta nên nhớ câu: "Chánh kỷ hóa nhơn giả thuận". Mình làm đúng dạy người là thuận. Ngược lại, "Thích kỷ hóa nhơn giả nghịch". Không làm được mà dạy người là nghịch lý vậy! Điều này rất tai hại như vị thuyền trưởng nói trên.

"Làm sao cho biển tâm lặng sóng?"

Đây là câu tham vấn về đạo lý tu hành. Biển pháp mênh mông, rừng thiền chớn chở. Nếu ta chưa rành, chưa bình lặng được sóng tâm, chớ giải liều! Dù không bị thiệt thân như vị Thuyền trưởng "bất đắc dĩ" nói trên, ta cũng rất bẽ bàng vì sự mâu thuẫn giữa việc làm và lời nói của chính mình.

Và đây, câu chuyện "LẶNG TÂM":

Một cháu hỏi:

– Sám Giảng có câu:

"Tu với tỉnh biết làm chẳng khó

 Nếu lặng tâm tỏ ngộ Đạo  Mầu."

Làm sao cho được lặng tâm hở Bác?

– Trong Giảng Kinh Tổ Thầy có chỉ dạy, cháu xem kỹ, suy gẫm tận tường rồi tu theo!

– Cháu muốn nhờ Bác có nhiều kinh nghiệm trong việc hành đạo, chỉ giùm cháu tu theo cho mau hơn!

– Giải thì được rồi. Nhưng giải xong, cháu hỏi "Bác Hai được lặng tâm chưa?" thì kẹt cho Bác lắm!

– Dạ! Cháu không hỏi như vậy đâu; Bác cứ giải bày cho cháu đi!

– Dù cháu không hỏi Bác có lặng tâm tỏ ngộ chưa đi nữa; Bác cũng phải tự thẹn mình chưa ra gì mà còn dạy đời chứ!

"Phận mình nếu liệu chưa xong,

Cũng nên ngượng miệng chớ hòng dạy ai."

(TS)(


143. MÒ ĐỒNG HỒ

Trong kinh Phật thường khuyên ta coi chừng chớ "nhận giặc làm con".

Đã bao đời, do thói quen từ ý nghĩ đến việc làm của ta đều quây quần trong khung cửa lòng vị ngã gây nên biết bao phiền muộn khổ đau. Do quán tính nên vọng tâm thường trở đi trở lại quấy nhiễu, khiến ta thành nửa Phật nửa ma.

Các nhà làm xiếc, tập luyện thú dữ rất thuần thục. Khi ra biểu diễn họ để ý đề phòng tối đa, thế mà lắm khi vẫn còn bị nạn!

"Ngựa phi ắt có hồi quay cổ,

Thú dữ nên phòng lúc cắn người."

Vọng tâm đến, đi với tốc độ nhanh hơn ánh sáng, lại thừa lúc ta lơ đễnh, hay gặp cảnh ngặt ngèo nhảy vào xúi xử làm những việc "quanh co".

Chuyện "MÒ ĐỒNG HỒ" là chuyện thật, rất ngộ nghĩnh. Cũng là một lời sám hối chân thật của một vị cư sĩ hàm ý cảnh giác cao!

Câu chuyện được kể như sau:

Có một ông ở Mỹ Tho, nhà khá giả mà rất hâm mộ tu hành. Sau một thời gian suy nghĩ, ông hạ quyết tâm, giao hết sự nghiệp cho vợ con đảm trách. Ông đem theo ít tiền lên núi Sam Châu Đốc cất cốc ở tu. Ở đây, lâu lâu ông kiếm thuốc nam đem xuống chợ đổi gạo, muối, tương chao... độ nhựt. Đời sống ông thật an nhàn.

Thời gian lặng lẽ trôi qua, âm thầm mang lại một sự... thử thách. Chòi là của ông bắt đầu hư dột. Lúc trời đổ mưa không còn chỗ nào khô ráo để ngồi niệm Phật cho yên! Ông ngắm nghía ước tính phải có độ 200$ lợp sửa chòi lại thì êm biết mấy! Nghề bán thuốc nam làm gì có dư được đến 200 bạc!

Một sáng nọ ông thả bộ xuống bến đá dưới chân núi với hy vọng coi có ai thuê làm công gì thì làm kiếm tiền. Tới nơi thấy mấy anh phu gánh đá ngồi chòm nhom bên bờ sông. Ông hỏi:

– Sao anh em không gánh đá mà ngồi đây, mình mẩy ướt mem vậy?

– Mò đồng hồ ông ơi! Chủ ghe đá làm rớt cái đồng hồ vàng, ai mò được ông chủ trả công 200$. Chúng tôi mò từ sáng đến giờ vẫn chưa được!

Nghe nói mướn 200$ đúng vào nhu cầu cần thiết của mình, ông nghĩ chắc trên trước hộ độ! Bèn hỏi:

– Anh em mò nữa thôi? Thôi, thì để tôi mò thử coi nhé!

– Ừa! Tụi tui lạnh quá rồi, lại mất hết buổi làm nữa! Ông có mò thì mò đi!

Ông ta bảo chủ ghe chỉ rõ chỗ rớt đồng hồ. Rồi cặm sào ngay đó làm dấu để lặn. Rất hên! Ông mới lặn vài hơi đã bắt gặp đồng hồ. Liền khi ấy còn đang ở dưới đáy sông ông chợt nghĩ "Cái đồng hồ vàng cho có 200$, rẽ quá! Mình phải kèo thêm mới được". Thế rồi ông dấu đồng hồ dưới gốc sào rồi trồi lên phân bua ngã giá:

– Ông chủ ơi! Người ta lặn hồi sớm giờ không được. Tôi nghèo quá nên rángg lặn, nếu mò được ông cho thêm đi!

– Ừ! Nếu mò được tôi cho ông 400$ đó!

Mừng quá nhưng không lẽ lấy lên liền, ông làm bộ lặn xuống, trồi lên mấy lần "câu giờ hồi lâu" mới đem đồng hồ lên giao cho chủ.

Lấy tiền xong, tản bộ về chòi, lòng thấy hổ thẹn. Ông tự trách: "Mình đã bỏ sự nghiệp đi tu, bây giờ chỉ hơi thắt ngặt một chút, gặp cơ thuận tiện lại khởi tâm quấy. Nếu muốn 400$ thì đòi trước đi. Để khi mò được rồi còn làm bộ cắt giá thêm!

"Bao năm qua tu cái gì đâu!"

Ông đạo mò đồng hồ tự hối và thố lộ với anh em đồng tu như là một cách sám hối vậy. Chứ điều ông ta nghĩ thầm trong bụng, lại đang lặn dưới nước, có Trời mà biết!

Chuyện trên cho ta thấy việc chánh tà chỉ cách nhau có một đường tơ!

Đức Phật từng khuyến cáo:

"Các ngươi chớ tin tâm mình khi chưa chứng quả A La Hán!" (


144. NGƯỜI XƯA CÒN SÓT

Nhơn sanh bá hạnh hiếu vi tiên. Con người có trăm hạnh lành, hiếu là trước hết. Đạo của người Quân tử đặt vấn đề hiếu trung làm trước. Và dù muốn tu thoát tục cũng không thể xem nhẹ ơn nhà nợ nước.

"Hiếu trung lòng chớ vội quên,

Sống lo trọn Đạo, thác lên Tiên Đài."(SG).

Nuôi cha dưỡng mẹ là bổn phận thiêng liêng, gần gũi và cần thiết nhất của mỗi người. Với người Phật tử, ngoài việc nuôi dưỡng cha mẹ, còn phải lo cứu độ vong linh ông bà cha mẹ nữa!

Thế nhưng ta phải đặt việc làm cho đúng với thời điểm cần thiết của nó, để ngày kia khỏi ân hận, vì để dịp trôi qua. Hiếu thảo là đức tánh mà từ xưa Tổ Tiên ta rất ca ngợi. Là con thảo cháu hiền, ta hãy rángg noi gương trước, để khỏi thẹn với người xưa.

"Người nay rồi vẹn thảo ngay,

Thì là thấy tạn mặt mày người xưa".(SG).

Câu chuyện "NGƯỜI XƯA CÒN SÓT" sau đây nói lên phần nào sự quan trọng của lòng hiếu thảo:

Anh Sáu bạn Bác, đang dự khóa học ở chùa Tây an. Vừa được vài ba tuần lễ, kế hay tin cha đau nhiều, anh đến xin với Ban Hoằng Pháp cho anh nghỉ học về lo nuôi cha. Ông Giám Đốc khóa học khuyên:

– Anh yên tâm học tập đi! Để tôi nói với anh em trong khóa quyên góp ít tiền gởi về lo cho Bác!

Anh Sáu đáp:

– Cha tôi đau, mẹ thì già, em còn nhỏ, tôi phải về tiếp. Về nhà chẳng những lo săn sóc cha mà còn phải đi làm thuê, kiếm tiền lo thuốc thang cho cha nữa. Thưa ông, tình cảnh của tôi kẹt lắm! Giả như học khóa này mà thành Phật đi nữa, tôi cũng nguyện xin đình lại khóa sau. Chứ hiện giờ, không thể không về tiếp cha mẹ được!

Ông Giám Đốc có vẻ buồn mến tiếc và cũng rất khen ngợi lòng hiếu thảo của anh.

Ông nói:

– "Người xưa còn sót lại anh đó!"(


145. XÉT LẠI

Đức Thầy có bảo:"Lời tac dạy hãy nên suy nghiệm..." và "…Chớ đừng lấy đức tin thọ lãnh những lời nói đó trong khi mình chưa hỏi tường tận."

Đức Phật cũng bảo: "Không hiểu Ta mà tin Ta, cầm bằng phỉ báng...", "... Các người không nên tin điều gì vì lý do điều ấy có ghi trong Thánh kinh, vì người xưa nói lại, vì nhiều người đã tin nhận v.v... mà hãy suy xét xem việc ấy có hợp với lẽ phải và có lợi ích cho chúng sanh hay không hãy tin..."

"Xét lại", không là một tội phạm thượng. Trái lại, thái độ ấy đúng với tinh thần tự do bình đẳng của nhà Phật. "Suy xét cho minh lý" đức tin mới mạnh mẽ. Chuyện "XÉT LẠI" dưới đây nhằm gợi lên ý chí bất khuất của người Phật tử không nhắm mắt tin càn. Tin bướng nghe càn dù may gặp chánh đạo, minh sư thì cũng chỉ là:

"Thầy Tiên môn đệ tục,

Đạo chánh tín đồ tà." Mà thôi!

Và đây câu chuyện XÉT LẠI:

Có chú em đến động viên Bác đứng ra tranh đấu củng cố, hưng phục lại cơ sở đạo giáo đang lúc khuynh nguy! Bác nói:

– Cái đó xin nhường lại cho những bực tài cao đức cả, chớ tôi chưa lo liệu được gì cho chính bản thân mình, nói chi đến gánh gồng việc lớn. Hơn 70 tuổi rồi mà cơm không đủ ăn; không có được mái lá che đầu cơn mưa nắng. Suốt đời chỉ biết ăn nhờ ở đậu, không biết thẹn sao còn mong dẫn dắt thiên hạ!

Chú ta nói:

– Kinh Phật có nói: "Người chưa tự độ mà nguyện độ cả chúng sanh trước, là hạnh Bồ Tát" chú thấy sao?

Bác trả lời:

– Cái đó tôi không rõ. Có điều tôi thấy rất rõ là nếu mình chưa giác ngộ thì không thể giác ngộ cho kẻ khác được.

Chú em ấy gằn giọng:

– Nếu như vậy thì đoạn Kinh Phật đó phải xét lại sao?

Chú lập tới lập lui câu ấy mấy lần. Bác cứng rắn trả lời:

– Chẳng những đoạn Kinh đó thôi, mà toàn thể Kinh Phật, luôn cả sách vở trên mặt đất này đều phải xét lại hết! Không những chúng ta xét lại thôi mà đến đời con chúng ta, nó cũng phải xét lại; và đến đời cháu chúng ta cũng còn phải xét lại nữa!

Thật vậy!Trong Phật Giáo không hề có câu:

"Hãy nhắm mắt tin theo!" (


146. ĐẠO PHẬT NGÀY MAI

Trước đà tiến bộ nhanh chóng của khoa học, bộ mặt xã hội hoàn toàn đổi mới, mọi giá trị ước định cũ và nhất là sự tín ngưỡng Thần quyền của các Tôn giáo lung lay mạnh, sợ rồi có ngày sẽ sụp đổ tan tành.

Đạo Phật ngày mai như thế nào có thể đứng vững và hướng dẫn tâm linh con người tiến đến chân thiện mỹ? Làm sao khỏi mang tiếng "Bị giáo điều mê hoặc"?

Ước định sớm quá khó trúng và khó tin. Việc đã đến rồi nói cũng bằng thừa. Làm sao nói rõ được "Đạo Phật ngày mai". Để rộng đường suy luận xin quí vị theo dõi câu chuyện sau:

Bữa nọ người bạn Bác nói với mấy cháu:

– Để lúc nào hợp thời cơ Bác nói "Đạo Phật ngày mai" cho các cháu nghe!

Mấy đứa nó nói:

– Rủi đến lúc ấy Bác chết rồi tụi con làm sao nghe được?

– Nếu Bác mất thì hỏi Bác Hai Như Sanh, ổng biết.

Mấy cháu ấy có dịp xúm lại hỏi Bác Hai.

Bác bảo:

– "Chưa đến thời cơ làm sao nói được. Phải thuận cảnh thì bạn Bác đã nói rồi!".

– Thôi, Bác nói đại cương đi! Mấy cháu cố nài nỉ.

– Ừ đại cương thì được! Bác đọc nguyên đoạn văn trong giảng của Đức Thầy:

"... Cái hành đạo đúng theo ý tưởng xác thực của nó là làm thế nào phát hiện được những đức tánh cao cả và thực hành trên thực tế bằng mọi biện pháp để đem lại cái phước lợi cho toàn thể chúng sanh...". Đọc xong Bác nhìn mấy cháu và nói: "Câu ấy rất thực tế và hợp thời đại!"

Và Ngài có bảo: "Xa Thầy cái gì phải là trước".

Ngài còn có những ước mơ lớn:

"Ước mơ thế giới lân Hòa Hảo

Nhà Phật con Tiên hé miệng cười"

Hòa Hảo đây không chỉ riêng đạo PGHH ở miền Tây Nam Bộ mà là nói cảnh giới toàn hảo, toàn hòa, chí chơn, chí mỹ mà những người có tâm hồn hướng thiện coi như là một "Ước mơ chung!" (


147. NGÀY MAI BIẾT CÒN KHÔNG ?

Đò âm dương đưa rước không chừng. Khi tàu mình đến thì phải ra đi chẳng lần lựa chần chờ gì được cả! Câu "NGÀY MAI BIẾT CÒN KHÔNG" nhắc nhở ta việc gì phải, hãy làm ngay bởi vô thường khó hẹn!

Có lần Bác Hai bệnh nhưng còn đi tới lui được. Nghe tin người bạn bệnh nặng, Bác tới nhà thăm. Ông bạn mừng rỡ cảm động nói:

– Tôi bệnh, anh cũng bệnh mà còn rángg tới thăm tôi chi cho cực nhọc vậy. Chừng nào mình mạnh rồi thăm nhau cũng được mà!

Bác nói:

– Ngày mai biết còn không!

Sợ bạn hiểu lầm, Bác tiếp lời:

– Tôi nói đây không phải nói anh mà nói cả tôi nữa đấy. Đến thăm anh chớ biết đâu tôi lại chết trước anh "Ngày mai biết còn không!". Bây giờ còn thăm nhau được cứ thăm anh đừng ngại gì cả! (


148. CÚNG SAO CŨNG TRÚNG

Sám Giảng có câu:

"Tới với Ta chớ đem đồ cúng,

Chỉ đem theo hai chữ thành lòng".

"Lễ Phật giả, kính Phật tri ân" – Lễ Phật là tỏ lòng tôn kính ân đức của Phật.

Lòng thành kính mới quí, hình thức lễ bái không thành vấn đề. Đánh mất phần quan trọng thì hình thức trở thành vô nghĩa.

"Làm tuần trà rượu xình xoàng,

Rồi thì chửi lộn mà an nỗi gì" (SG).

Đó là ý nghĩa của chuyện CÚNG SAO CŨNG TRÚNG sau đây:

Mấy năm gần đây khắp miền Tây. Tín đồ PGHH hay cầu nguyện cho người đau ốm hoặc cầu siêu cho người quá vãng, vào những ngày tuần thất hay lễ giỗ.

Trong việc cầu nguyện tập thể, tùy địa phương, anh em trong đạo sắp đặt nghi thức, cách nầy cách khác không giống nhau.

Do đó, đôi khi có sự bất đồng ý kiến sanh ra cự cãi nhau sôi nổi. Một hôm có người trình bày sự việc và hỏi ý kiến Bác, xem ai đúng ai sai?

Bác đáp:

– Cúng sao cũng trúng, chỉ có cãi lộn là trật!

Nhân câu chuyện này, Bác nhớ lại 50 năm trước có ông hội trưởng xã ở Long Xuyên, bạch với Đức Thầy: "Thưa Thầy! Nhờ Thầy chí cách thức cúng lạy để con về chỉ cho anh em đồng đạo trong xã cúng lạy cho giống nhau, chứ một đạo mà ông lạy vầy ông lạy khác!

Đức Thầy hỏi:"Mà anh em có cúng lạy không?"

– Thưa có! Nhưng mỗi người lạy một cách không thống nhất nhau!

Đức Thầy nói:

– "Hễ có lạy là thống nhất, còn không cúng lạy mới không thống nhất".

Đức Thầy nói thế chứ không bày vẽ cách thức lạy.

Về điều này trong Sám Giảng, Ngài dạy đơn gọn là bàn tay lật ngửa vậy thôi. (


149. TẠI KHÔNG NIỆM PHẬT

 Phần nhiều đồng đạo niệm Phật, cầu Phật ban rải phép mầu cho mình được tiêu tai tật bệnh. Một số người niệm Phật mong tâm hồn mình được Phật hóa, bình an thanh thản, dù đang trong tai nạn.

"Hạnh Phúc là tự tại giữa khổ đau"

 (Viên Minh)

Câu chuyện sau đây trình bày về hai trạng thái mong cầu ấy để chúng ta làm dữ kiện suy tư:

Một hôm Bác bị xe đụng, mấy ông bạn già đến thăm. Có người nói nửa đùa nửa thật:

– Chắc tại lúc đạp xe lên dốc mệt anh quên niệm Phật xe mới đụng! Chớ niệm Phật sẽ được tiêu hết nghiệp.

Bác nói:

– Tôi niệm Phật không cầu xin Phật đỡ giùm xe đụng, cầu xin như vậy làm Phật mệt lắm!

Người bạn nói:

– Nói đùa vậy chớ niệm Phật là cầu lặng tâm.

Bác tiếp lời:

– Thì vậy! Qua sự cố này tôi thấy tôi niệm Phật có kết quả.

Một ông bạn đắc ý nói:

– Nếu không tu niệm chắc tai nạn còn lớn hơn nhiều hả anh?

Bác trả lời:

– Cái đó lấy đức tin mà nhận thôi, làm sao minh chứng được. "Nếu không tu niệm chắc tai họa sẽ nặng hơn"?

– Vậy anh thấy niệm Phật kết quả làm sao?

– Tôi bị xe honda quẹt té xuống đường bể bánh chè đau vừa gì! Thế mà lòng dửng dưng không phiền giận kẻ gây tai nạn, cũng không buồn cho số mệnh, chẳng khởi tâm phân biệt lỗi phải hay tha thứ gì cả. Chỉ biết có đau và xoa bóp chỗ đau như mình tự té ênh! Thế, còn bảo mấy chú gây tai nạn cứ đi đi, tôi bớt đau sẽ tự về được! Thậm chí về nhà nhớ lại còn tự lấy làm lạ! Sao lòng mình bình an đến như vậy. Tôi nghĩ cái đó không phải tự nhiên mà có. Đó chính là kết quả của công phu tu hành niệm Phật bấy lâu nay đấy! (


150. SỐNG SAO KHỎI KHỔ

"Trong hội ngộ đã sẵn mầm ly biệt,

Trong an vui có ngầm chứa khổ đau."

Khổ vui là hai mặt của một thực thể, làm sao tách rời ra được? Câu hỏi: "SỐNG SAO KHỎI KHỔ" tìm đâu ra đáp số? Họa chăng chỉ có liều mạng mộc gánh khổ tiếp cho người. Các bậc thánh nhân còn mong:

"Biết sao trút hết gánh về ta mang"

"Mang cho hết tai nàn thế giới"

Điều này chắc hơi khó! Có cháu học sinh hỏi:

– Sống sao khỏi khổ, Bác Hai?

Cháu nó không rành đạo lý lắm nên mình không giải thích nhiều với nó được. Bác đáp gọn:

– Muốn khỏi khổ phải sống vị tha. Còn sống vị kỷ quá thì phải khổ.

Sợ nó còn ngờ vực Bác nói thêm:

– Sống vị tha dù lên đoạn đầu đài cũng an lòng như những vị anh hùng vì nước vong thân, đến ngày tàn vẫn an lòng vì đã hy sinh đời mình cho quê hương, cho dân tộc. Còn kẻ quá vị kỷ dù làm vua cũng chẳng yên, vẫn lo sợ đủ điều: sợ mất ngôi, sợ phản thần, ám sát...

Tóm lại sống vị kỷ thì luôn bị phiền não, âu lo, còn sống vị tha dù rất gian khổ vẫn cảm thấy an vui hạnh phúc. (


151. TẬP TU VỚI NÓ

Nắng mưa đều giúp vạn vật sinh trưởng. Cũng như thế, buồn vui đều là yếu tố giúp con người được trưởng thành. Người Phật tử phải nhận lấy những bài học khó khăn ở trường đời mà làm bước tiến đạo.

Bác có đứa cháu gái là cư sĩ. Một hôm qua bệnh viện thăm bệnh, gặp đứa trẻ mồ côi, nó xin về nuôi.

Ít lâu sau bác ghé thăm chơi, thấy nó cưng đứa nhỏ lắm, Bác nói:

– Nuôi con cực nhọc chớ cũng có niềm vui, nó cũng đem lại cho mình nụ cười!

Cháu có vẻ đồng ý, bởi chính nó đang tìm được nguồn vui ở đứa bé.

Hôm tết rồi nó đến thăm Bác. Đứa con nuôi của nó cũng đã lớn, quậy khá! Chuyện vãn một hồi sắp kiếu về, nó hỏi:

– Bác Hai ơi! Hôm con xin đứa con nuôi, Bác nói nó cho con nụ cười. Bây giờ nó cho con phiền phức rồi làm sao hả bác!

– Thì tập tu với nó! Bác nói.

Nghe vậy nó cười rồi quày quả ra về! (


152. VỊ NGÃ

Trên quãng đường rừng vắng vẻ, một tướng cướp đã hoàn lương đang hối hả trở về non. Mục đích anh ta về hỏi Thầy xem làm cách nào cho mau tiêu tội chướng. Đã hơn ba năm qua, dù hết lòng làm việc thiện, mà bộ đồ thâm của anh ta chưa trắng lại được, theo lời Thầy mách trước. Điều đó chứng tỏ tội giết 51 mạng người của anh còn nguyên đó. Anh buồn bã với nỗi buồn rầu ân hận xốn xang.

Bỗng có tiếng khóc lóc van xin thảm thiết vang lên ở phía trước. Anh chạy nhanh đến, thấy một tên cướp toan giết người để đoạt của, anh vội bước tới khuyên ngăn.

Vì tình đồng nghiệp cũ, tên cướp với giọng hách dịch nói:

– Thôi, đường ai nấy đi, nếu can vào phải chịu chung số phận với mụ này!

Anh suy nghĩ, tay mình đã đẫm máu nhiều, chưa gột được, chả lẽ lại nhúng thêm vào máu nữa, toan bỏ về non lo gỡ tội xưa. Nhưng khi nhìn thấy ánh mắt van lơn tha thiết khẩn cầu của người cô thế lâm nguy anh không nỡ phó mặc. Sau vài giây giằng co giữa lòng vị kỷ và vị tha, anh quyết định: "Thôi ta cam đọa địa ngục để cứu người nguy khốn".

Anh vung lên vài đường kiếm tuyệt luân, tên cướp ngã quỵ, máu ra lênh láng. Anh sững sờ nhìn xác chết như là mình mới giết người lần đầu, miệng thì thào:

– "Đó là sự bất đắc dĩ, thật ta đâu nỡ thế!".

Nhưng lạ thay! Anh nhìn lại bộ đồ thâm của mình đã đổi trắng. Thật không thể ngờ điều mong ước từ lâu nay đã đến. Thế là dấu hiệu tội lỗi đã chấm dứt.

Chuyện trên cho thấy những phiền não lo âu, sợ hãi chỉ bám vào lòng chấp ngã của con người. Nay, vì người quên mình, thương lo cho kẻ khác, tất cả các phiền não ấy không chỗ bám víu. Vừa đọc truyện ngụ ngôn Phật giáo đến đây, bỗng có bạn đến thăm chơi. Hàn huyên giây lâu, anh bạn hỏi:

– Anh Hai à! Có những cái buồn phiền mình biết rõ căn cội, lý do của nó, mình cố gỡ lần cũng yên được. Nhưng sao có nhiều nỗi buồn vô căn cứ "không tên" đeo đẳng ray rứt mãi trong lòng chẳng biết nguyên do. Sao lạ vậy anh?

Bác đáp:

– Nó có tên chứ!

-...???

– Đúng, nó tên là "Vị Ngã".(


153. THA CHO BẢ ĐI !

Năm rồi nước lũ to, khắp đồng sâu vùng Long Xuyên Châu Đốc bị ngập lụt. Những hộ nghèo khó lại phải dời nhà ra mé lộ xe, che lều ở đỡ. Họ không thể làm thuê mướn gì được, tình cảnh rất đáng thương!

Những nhà hảo tâm khắp nơi thường tổ chức nhiều đoàn đến cứu trợ, xoa dịu phần nào nỗi đói khổ của đồng bào nghèo ở đây.

Có một đoàn trên 20 người, đều là Phật tử giàu có, đến Ba Thê cứu trợ. Họ tổ chức sắp xếp quà trên 5–6 cái bàn. Bàn số 1 phát tiền, bàn số 2 gạo, bàn số 3 vải, bàn số 4 bánh,v.v...

Những hộ nghèo trong xã được ủy ban tập trung và hướng dẫn cho bà con đi thành một hàng, nối nhau có trật tự đến nhận quà từ bàn 1 lần đến bàn chót là xong.

Một số người trong đoàn cứu trợ, muốn cho đồng bào nghèo đến nhận quà có chút duyên lành với Phật Pháp nên đề nghị buộc người nào lại nhận quà ở mỗi bàn phải niệm 3 câu: "NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT".

Có bà lão già yếu chậm lụt. Niệm chỉ có 3 câu mà "lập cà lập cập " rất lâu, có lẽ không quen niệm.

Trước bà người ta đã đi khỏi hết còn phía sau bà con nhận quà bị dồn lại chờ đợi! Trời trưa nắng oi bức, mỏi mệt. Một cô trong đoàn cứu trợ thấy vậy có vẻ bất bình nói:

– "Thôi, tha cho bả đi!"

Một số người mỉm cười, một số khác nhìn gay gắt.

Đúng hay sai? Không cần thiết phải bàn. Có điều làm gì phải do lòng tự nguyện mới quý. Với lại biếu quà mà đặt điều kiện đương nhiên là hạ thấp đi sự cao đẹp của lòng nhân khiến tặng phẩm trở thành bất toàn, đồng thời hạ phẩm giá của người thọ nhận! Ta nên suy xét lại. (


154. THA LỰC VÀ TỰ LỰC

Một người hỏi:

– Thưa Bác tu Tịnh Độ là nương nhờ tha lực. Còn tu thiền chỉ cậy vào tự lực. Vậy mình tu hành theo đường lối Thiền Tịnh song tu có mâu thuẩn hay trở ngại gì nhau không? Cách tu Thiền và Tịnh Độ ra sao?

Bác nói:

– Nếu lòng còn phân chia pháp môn cao thấp… thì có chướng ngại mâu thuẩn. Ngược lại, nếu khéo áp dụng dung hòa thì các pháp đều trợ trưởng cho phút giây giác ngộ của hành giả.

(Vô lượng pháp môn thệ nguyện học)

Hết lòng cầu khẩn và tin tưởng ở tha lực mà tự lực vươn đến cao độ là đúng. Bằng như tin tha lực mà tự lực tiêu mòn bại liệt thì đó là ỷ lại, là sai với tinh thần dũng mãnh tinh tiến đại hùng lực của nhà Phật.

"… Đừng ỷ lại vào sự cứu vớt của Thần Thánh, đừng ỷ lại sự bênh vực của Thầy mình. Luôn luôn lúc nào cũng phải nhớ câu Nhơn Quả của Phật dạy, nếu Nhơn toàn thiện thì Quả cũng sẽ do đó được toàn thiện vậy."

Có một đạo binh bị địch vây cố sức chiến đấu hơn nữa ngày, tướng binh thỏn mỏn mà vòng vây càng siết chặt. Bộ chỉ huy đang họp bàn nên liều chết hay đầu hàng. Bỗng bắt được tin viện binh sắp đến. Quân lính phấn khởi vùng lên đánh phá thủng vòng vây, bấy giờ viện binh mới tới!

Chỉ mỗi niềm tin nơi tha lực mà tự lực cũng đã làm nên phép lạ huống là cộng với tha lực vô biên.

Về vấn đề niệm cầu Phật Lực điều kiện tiên quyết là phải thật chí thành chí thiết:

"Phải thật cảm Phật ngài mới ứng

Niệm lơ là Phật chứng vào đâu?"

Và:

Tất cả tấm lòng thành

Gom vào câu niệm Phật

Khi niệm ấy phát lên

Vang rền trong trời đất

Rừng mê phá sạch không

Bể khổ lấp bằng mặt…

Chỉ trong cái hoát nhiên

Thấy rõ tam thế Phật.

Tuy nhiên, chớ ỷ lại vào tha lực mà bỏ đi tự lực.

Lúc nào cũng tự lóng lòng cho trong sạch, làm lành lánh dữ, noi đức từ bi hỷ xả của Phật mà tu hành, mới mong về cõi Phật được. Phật bảo: "Các ngươi hãy tự thắp đuốc lên mà đi". Và:

"… Coi rồi phải thân mình tự trị

Chẳng độ xong Phật khó dắt dìu"

(SG)

Như thế đủ biết chúng ta là vai chính và là đạo diễn trong vỡ tuồng đời của mình. Hãy luôn soi rọi lại lòng.

Bất cứ khi đi đứng ngồi nằm

Đều thấy rõ trong tâm mỗi việc.

Việc của mình chính mình phải biết

Nên cùng hư mọi việc đều thông

Chẳng khi nào bất giác nơi lòng

Được như thế sẽ không phạm tội

Ngày đêm phải tự mình suy gẫm

Ngăn gió trần cho lặng sóng tâm

Đường về cõi Phật rộng mênh mông

Gặp Phật phải qua cánh cửa lòng

Nước bỏ tất không tìm được cá

Cội lìa sẽ chẳng kiếm ra bông

Thánh phàm ai tạo suy thì biết

Mê ngộ đâu sanh nghiệm sẽ thông

Chớ có đau Nam mà chữa Bắc

Chủ tâm được tức vạn môn tòng

Dù Thiền dù Tịnh dù muôn pháp

Tự chủ nơi tâm ấy cội nguồn

(TS)

Mỗi lần nhớ lại hai câu thi của vị Thiền Sư nào đó:

"Nam nhi tự hữu xung thiên chí

Hưu hướng Như Lai hành xứ hành"

(Làm trai chí dũng tới trời cao

Không rập khuôn hành hạnh Như Lai)

Bác cảm thấy hứng khởi và vô cùng thích thú, thì liền khi ấy một sự cảnh giác cao đồng thời trổi dậy, buộc mình phải soi rọi nghiêm khắc lòng mình.

Và câu kinh Phật liền xuất hiện: "Chúng sanh đời sau không biết ngã là trọng bệnh, nên càng tu ngã mạn càng tăng"…

– Khi gặp cảnh buồn Bác niệm Phật với tâm trạng tựa nương tức được an tâm, như đứa trẻ nằm trong vòng tay của cha mẹ.

– Khi gặp việc may mắn Bác niệm Phật với lòng tri ân Tam Bảo sâu xa, tức cảm thấy an lòng vững bước trên đường hành đạo.

– Hãy mạnh dạn tiến về chân thiện mỹ tuy là phải độc hành vô lữ – cô đơn nhưng không cô độc. Có ngàn tay ngàn mắt Phật và Bồ Tát đang trông chừng (từ nhãn thị chúng sanh) đang chực nâng đỡ chúng ta khi vấp ngã.

Tóm lại, đem tất cả tâm hồn dũng mãnh của mình hòa quyện với niềm tin Phật lực sẽ có được một sức mạnh phi thường phá tan ngục tù phiền não khổ đau.

Hãy vui tin Phật lực,

Tự soi lại lòng mình

Và mạnh tiến! (


155. DỞ ẸC !

Có người bạn đến nói với Bác Hai :

– Tánh tôi hễ thấy đồng đạo mà có thờ bà mẹ sanh, thần tài... là tôi đả kích kịch liệt, thậm chí chỗ quen thân, tôi còn dẹp luôn cho người ta. Như vậy tôi đúng hay sai?

– Không biết đúng hay sai mà “dở ẹc!”(


156. CHUA NGỌT

Trước đây có dạo Bác nương ngụ trong một ngôi chùa xa hẻo lánh. Bác thường bực mình vì mấy đứa trẻ ngoài xóm vào chùa phá phách, bẻ trộm cây trái.

Chúng nó biết người tu không đánh đập hay thưa gởi gì nên quá lộng hành. Gặp người trong chùa chúng bỏ chạy, nhưng vắng người là chúng trở vô phá nữa. Giận quá Bác thường mắng chúng là “đồ quỷ phá nhà chay”. Nhưng thôi mình đã lỡ tu phải ráng nhẫn dằn.

Ngày hòa bình Bác trở về quê, chùa chỉ còn một ông trụ trì già yếu, không đủ sức dọn dẹp nên cây cỏ um tùm trong rất đìu hiu quạnh quẽ.

Năm năm qua!

Một hôm có dịp đi ngang, Bác ghé tạt vào thăm lại chùa xưa. Vừa vào đến sân gặp hai ba chú em đang làm cỏ, chúng thấy Bác đồng đứng lên chào: “Thưa Bác mới về hả Bác Hai”.

Xem kỹ lại, đó là mấy thằng “tiểu quỷ” thường vào chùa phá phách thuở trước. Nay chúng đã mười chín, hai mươi tuổi rồi. Bác hỏi:

– Mấy đứa làm gì đó?

– Dạ dọn cỏ rác quanh chùa chuẩn bị lễ Rằm sắp tới đó Bác!

– À! Tốt quá!

Bác khen chúng và từ từ đi vào chùa vừa ngâm nho nhỏ như để chính mình nghe:

        “Chua vì bởi nó còn non,

Chín rồi sẽ ngọt không còn chua đâu” (T.S.) (


157. TU TRONG CÔNG VIỆC HÀNG NGÀY

Một chú em bán tạp hóa. Cửa hàng của chú khá lớn. Công việc bận rộn suốt ngày. Một hôm chú gặp Bác và than : “Nghề làm ăn của con quá bận, không có thì giờ để tu hành, con không biết làm sao?

Bác đáp: Cháu có nhiều cơ hội để tu hơn hết đó chớ. Hãy Phật hóa việc cân đong đo đếm của mình. Bao bì bảo quản hàng hóa chắc chắn trước khi trao cho khách. Hãy đem tinh thần từ bi hỷ xả của Phật mà tiếp đãi ứng xử vui vẻ với mọi người, mua bán nới nang, vui lòng khách đến vừa lòng khách đi. Như vậy sẽ có nhiều tiến bộ trong việc tu. Kinh tế gia đình ổn định mà lại đắc hàng thêm.

Từ sớm đến tối thiếu gì chuyện để tu. Sợ e tu không hết lo gì không có thì giờ và cơ hội để tu. Nhất là nhớ đem lòng từ bi hỷ xả giao tiếp với đời. Đó là hành đạo, là thiện mỹ hóa đời sống vậy. (


158. CHỈ TOÀN THẤT BẠI

Một đứa cháu nói với Bác:

– Bác Hai ơi! Bác già yếu lắm vậy Bác truyền lại cho tụi cháu những cái “thành công” trên bước đường tu hành của Bác đi, để Bác qua đời mang theo uổng lắm!

Bác đáp:

– Rất lấy làm tiếc là Bác không thành công gì hết chỉ toàn “thất bại” không hà!

Nó cười chắc không hiểu ý nên không hỏi thêm gì nữa.

Bác thấy vậy nói thêm:

– “Thất bại là mẹ thành công” đó cháu! (


159. DẠY TU MÀ KHÔNG TU

Có một cô đến than phiền với Bác:

– Con còn đứa con gái út mười sáu tuổi, nó không thích tu hành, cứ ham đua đòi theo vật chất xa hoa. Con khuyên lơn ngọt ngào thì nó còn nghe chút đỉnh, còn hễ rầy la thì nó làm dữ, cự cãi lại. Có khi không dám cự bằng lời lẽ, thì nó ra nhà sau dằn xán đồ đạc tỏ ý bất mãn. Con rất buồn phiền vì đứa con nầy, không biết phải làm sao. Mình dạy nó tu mà nó không chịu tu!

Bác mĩm cười nói:

– Còn nó cũng dạy cô tu mà cô không chịu tu!

 Cô ấy hiểu ý nên cười xòa. (

160. GIẢI THOÁT CÁI BUỒN PHIỀN

Có đứa cháu rất kỹ lưỡng và hơi khó tánh. Một hôm đến thăm và yêu cầu Bác chỉ giùm pháp môn giải thoát nhanh chóng.

Bác nói:

– Rất tiếc Bác không giúp được cháu điều ấy. Vì trên thực tế chính Bác cũng chưa giải thoát làm sao giúp người khác giải thoát được. Hằng ngày Bác chỉ lo sửa tánh răn lòng, đối với mọi người sao cho tròn ân vẹn nghĩa vậy thôi!

Không thỏa mãn yêu cầu, thấy cháu buồn ra mặt, Bác nói thêm:

– Chuyện giải thoát cao xa Bác chưa với tới, Bác chỉ cởi mở lòng mình trong các việc phiền phức nhỏ nhặt ở đời thôi. Dụ như Bác nói điều gì đó làm cháu phiền lòng ray rức, hãy cởi mở ngay nó đi.

Hãy giải thoát cái phiền phức trong lòng mình đi, cháu sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng, mát mẻ và đồng thời khi lòng tràn ngập niềm vui, tự nhiên mình sẽ ban phát niềm vui cho gia đình và xã hội. Điều đó đúng theo luật phản hồi, hễ: “Gieo vui vui nở, gieo phiền phiền sanh”.

Đối với mọi sự việc đều cố xử sự được như thế thì ta luôn sống trong an lạc và sẽ về an lạc quốc.

Nói đến đấy thấy cháu tươi vui và thỏa mãn.(


161. PHẬT BẢO HAY MA XÚI

Có ông bạn hỏi:

– Anh Hai à! Kinh Phật có dạy lúc lâm chung mình nhớ niệm mười câu Nam Mô A Di Đà Phật, tức được Phật tiếp dẫn về Tây Phương.

Vậy bây giờ mình cứ ăn chơi xả láng rồi gần chết mình niệm mười câu lục tự và nhờ xóm giềng niệm tiếp, vậy có được vãng sanh không?

Bác đáp:

– Mình nên xét kỹ lại xem câu “cứ ăn chơi xả láng” đó là Phật bảo hay ma xúi. Nếu ma xúi mà nghe theo là đọa nhé!

Ông bạn cười nói:

– Tôi học câu trả lời của anh đó!


162. ĐEN TRẮNG CUỘC ĐỜI

Một hôm bạn Bác cần đi chợ sớm, mới ba giờ rưởi khuya anh cỡi xe honda ra đi. Đang chạy trên quảng đường vắng, còn hơn hai cây số nữa mới tới bến đò qua chợ, anh thấy có người đàn bà ôm đồ kềnh càng lỉnh kỉnh đi coi bộ nặng nhọc lắm. Anh biết khó đón xe vào giờ nầy, nên quày xe lại hỏi:

– Cô đi đâu?

– Dạ đi chợ Long Xuyên.

– Giờ nầy không có xe đâu, cô lên đây tôi chở giùm cho.

Cô ấy mừng rỡ cám ơn rối rít.

Anh chở cô ấy đến bến đò qua sông, rồi mạnh ai nấy đi. Lòng anh rất vui mừng vì mình làm được một việc nghĩa, giúp người trong cơn ngặt.

Trưa lại, anh về nhà nghe bà con lối xóm nói: –Hồi hôm có người đàn bà giả bộ lỡ đường, xin nghỉ nhờ nhà trong xóm nầy. Nửa đêm ả lén cuổm hết quần áo của chủ nhà đi mất. Ả mới ra đi thì chủ nhà hay kịp tri hô lên, hàng xóm túa ra kiếm, không rõ ả trốn ngã nào, mới đó mà kiếm cùng hết vẫn không được, thật là lạ!

Bạn Bác cười nói:

– Thôi rồi! Tao chở giùm nó đến bến đò qua sông rồi, tụi bây kiếm sao được. Đâu bây xử coi tao tốt hay xấu, tội hay phước?

– Cha tôi bây giờ cũng không biết xử ông làm sao nữa!

Ai nấy cùng cười. Chủ mất đồ thì méo mặt.

Người xưa cũng từng gặp phải chuyện đời đen trắng khó phân nầy, nên có lời cảnh giác kẻ sau cần suy xét tận tường trước mọi việc để khỏi lầm lạc chua cay, cười ra nước mắt:

“Chớ tin việc gì đó là ngay thẳng – mà nó đúng thật ngay thẳng – có khi nó lại bất công.

Hãy đề phòng việc gì đó mình tưởng là nhân từ mà nó lại bất nhân”

( Mạc tín trực trúng trực,

  Tu phòng nhân bất nhân ) (

163. CÓ THIÊN ĐƯỜNG, ĐỊA NGỤC ?

Một cô nói:

– Ông nhà con hỏi có ai lên thiên đường trở về thuật lại cho mình biết không mà tin? Con không biết giải bày thế nào.

Bác nói:

– Đâu đợi ai lên thiên đường trở lại cho mình biết. Từ sáng đến giờ mình đã lên thiên đường và xuống địa ngục nhiều lần rồi đó! Như mỗi khi mình nghĩ hoặc nói, làm điều gì đó cho mình và người được lợi ích hòa vui là mình đang ở thiên đường đó, ngược lại là địa ngục.

Sách xưa có câu:

“Sanh tiền bất kiến thiên đường lộ,

  Tử hậu nan ly địa ngục môn”

Tức: Lúc sống không biết nẽo lên thiên đường, khi chết khó lìa khỏi cửa địa ngục.

Vậy, chúng ta hàng ngày nên thường xuyên lên thiên đường cho rành đường xá, sau khi mệnh chung khỏi rơi vào địa ngục.

Nghe chuyện trên có cháu hỏi:

– Giá như có người nói: Đời tôi chưa từng thấy lên thiên đường hay xuống địa ngục lần nào đâu, mình phải nói làm sao?

Bác đáp:

– Có câu tư tưởng: “Chơn lý chỉ đến với kẻ chí tâm hành đạo, không đến với kẻ tò mò biện luận”.

Sách thiền có chuyện ngụ ngôn: Có tên lính ngự lâm đến hỏi một vị thiền sư hãy chứng minh rõ ràng cho hắn thấy có địa ngục hay thiên đường xem!

Thiền sư nhìn tên lính ấy, rồi bỉu môi nói:

– Ngươi là một tên vô danh tiểu tốt cũng bày đặt hỏi thiên đường, địa ngục!

Tên lính ngự lâm nổi sùng rút gươm của vua ban đưa ra hỏi: “Ông có biết tôi là ai không mà lớn lối khi dễ tôi như thế ?”

Thiền sư đáp: “Vậy là anh đã biết nửa câu hỏi: Có địa ngục không?”

Tên lính hiểu ý ngay, mĩm cười tra kiếm vào vỏ.

Thiền sư nói tiếp: “Thế là anh hiểu nốt nửa câu sau: Có thiên đường không?” (


164. ĐẾN LÚC TÀN HƠI

Có đứa cháu thuật lại với Bác:

– Hôm đó trời sáng nắng ráo, con gà mái của cháu đang bị bệnh, khập khiểng dẫn bầy con mới nở độ mươi hôm đi kiếm ăn. Nó đến bên đống rác bươi một lõm trống rồi “túc túc” kêu con nó đến kiếm mồi ăn.

Mệt quá nó nằm ngoẻo đầu trên đất. Giây lát con nó ăn hết mồi đứng ngơ ngác. Nó gượng đứng lên bươi thêm một lõm nữa, rồi cũng nằm xuống nghỉ.

Đến lần thứ ba, nó chổi dậy cố sức bươi thêm một lõm to gấp đôi lần trước rồi túc con lại ăn. Tưởng nó nghỉ khỏe nên bươi mạnh dạn hơn trước, nào ngờ nó cố gắng lần cuối cùng rồi chùi đầu xuống đất, chân duỗi ra và trút hơi thở cuối.

Chuyện con gà vậy mà làm cháu bùi ngùi cả mấy hôm, xúc động trước tình thương lo của mẹ đối với con “đến lúc tàn hơi”. Bỗng nhiên cháu khẻ gọi lên hai tiếng “Mẹ ơi!”. (


165. NIỆM BỒ TÁT QUAN THẾ ÂM CHI VẬY ?

 Có cô giáo nghe Bác nói Bác thường niệm Quan Thế Âm hơn niệm Phật. Cô ấy hỏi:

– Con cũng hay niệm Quan Thế Âm như Bác, mà mình niệm Phật và Bồ Tát chi vậy Bác?

Bác không nói niệm Phật và Bồ Tát để cầu Phật độ mình tai qua nạn khỏi, mà nói:

– Niệm Bồ Tát để nương theo đức từ bi hỉ xả, cứu khổ cứu nạn của Ngài mà tu theo.

Mình có gieo nhân lành giúp đỡ người, thì sẽ gặt được quả tốt. Có lâm nạn sẽ có người cứu giúp cho. Và niệm như vậy mới có lợi ích thiết thực.

Cô ấy tỏ vẻ hài lòng. (


166. SAO HAY ĐỤNG CHẠM ?

Có ông bạn hỏi Bác Hai:

– Anh Hai à! Tại sao mình đi đâu cũng hay bị đụng chạm chống đối quá, mình không ráng nhẫn chắc phải có lắm chuyện xích mích phiền phức.

Bác đáp:

– Tại cái “ngã” của mình to quá nên hay đụng chạm cọ quẹt đó! Tốp nhỏ lại một chút sẽ ít đụng chạm rắc rối.

Đến chừng nào chúng ta được “vô ngã” sẽ mặc tình tự tại dạo khắp bốn phương.

Ông bạn cười hỏi tiếp:

– Nhẫn là nhịn chịu rồi, còn nhẫn Ba La Mật là sao nữa Anh?

– Nhẫn Ba La Mật quá tầm với của mình, chờ đến mức trưởng thành nào đó mới có thể thực hiện được.

Tạm dụ như: Người mẹ thấy con bò ra gần mé ao, lật đật chạy đến bế nó vào. Nó không biết ơn còn dẫy nẫy cào cấu mẹ nó, thế mà bà vẫn nhẫn chịu. Nhẫn ở đây là một lối nói, chứ thật ra bà chẳng có dằn nhẫn gì cả. Vì tình thương chan hòa cùng khắp.

Nhẫn như vậy tạm gọi là nhẫn ba la mật. (


167. CÔNG ĂN CHAY BỎ HẾT

Không rõ do sơ xuất đã ăn lộn thức ăn mặn hay không, một bà lão đến hỏi:

– Chú Hai! Mình ăn chay trường mà sơ ý ăn lộn đồ mặn, vậy thì công ăn chay từ trước bỏ hết rồi phải không Chú?

Bác không nói hết hay còn, mà muốn khơi dạây lòng hỷ xả của bà nên nói:

– Tôi ăn chay cũng lâu lắm rồi, mà ăn xong bữa nào là bỏ liền bữa nấy, đâu đợi tới ăn lộn mới bỏ!

Bà cười thỏa mãn. (


168. TỰ NHẮC MÌNH DỄ HƠN

Có chú em gặp Bác Hai và nói lên ước vọng:

– Phải con được gần Bác thường, để nhờ Bác nhắc nhở khuyến khích con tu tiến trong những lúc đạo tâm mình lui sụt, như vậy đỡ biết bao nhiêu!

Bác nói:

– Thôi đi! Mình tự nhắc nhở mình mau hơn, chờ người ngoài nhắc lâu lắm. Ví dụ: Nửa đêm cháu chợt nghĩ quấy gì đó, ai mà nhắc cho kịp!

Cả nhà cười ồ! (


169. MỘT SỰ VIỆC, HAI CÁCH NHÌN

Có một lần Bác Hai đi đường, trông thấy một ông già mặc áo quần phèn và sờn rách, vai vác bị. Bác Hai tưởng ông đi xin, liền móc tiền vui vẻ đến cho ông. Bất ngờ bị ông gạt ra một cách phủ phàng và cự nự hằn hộc với Bác. Vì Bác đã cho lầm, ông ta không phải kẻ ăn xin. Bác buồn bỏ đi, lòng tự bảo: – Sau nầy đợi người ta nài nỉ cầu xin hãy cho. Đừng quá sốt sắng có khi gặp phải phản ứng xấu.

Tự nhủ thế chứ không làm như thế!

Một lần khác thấy một ông già mặc quần ngắn, cũ, tay chống gậy cặp theo cái ca lớn. Bác vội thắng xe đạp lại, móc tiền ra định cho. Ông ấy vui cười khoát tay lia lịa nói:

– Không phải! Không phải! Tôi đang đi tắm lên.

Bác bèn nắm tay ông và nói:

– Xin ông cảm phiền, tôi trông lầm, xin lỗi nhé!

Ông già cười nói:

– Không! Không lỗi gì cả. Cám ơn lắm! Cám ơn lắm!

Cả hai người chia tay lòng tràn ngập niềm vui không chút tốn kém.

Qua hai mẫu chuyện kể trên cho ta thấy: Cũng cùng một sự việc giống nhau, nhưng kẻ khó tánh, bực bội, tự ái quá cao, thì nhìn thấy lửa địa ngục thiêu đốt trong lòng. Còn người lòng hướng thiện lại cảm nhận được gió mát của thiên đường tràn ngập.

Vậy nếu có sự việc gì đó làm ta buồn phiền. Hãy xét lại mình xem! Tại mình đứng ở góc độ nào đó mà nhìn mới cảm thấy vui hay buồn chứ không do ngoại cảnh. (


170. BỐ THÍ NIỀM VUI

Một hôm Bác Hai đang thả bộ trên cầu Duy Tân, bỗng gặp một ông lão ăn xin đang đi ngược chiều lại, Bác lấy ra hai ngàn đồng, không hiểu sao Bác tự dưng cầm hai tay kính cẩn đưa cho ông ấy. Ông ta vừa mừng vừa ngạc nhiên, ông không lấy tiền ngay mà cúi mình để cây gậy và bị vải xuống đất, rồi hai tay nâng lấy tiền Bác và xá xá một cách cung kính. Bác vổ nhẹ vai ông và bước đi.

Bác nhìn thấy vẻ mặt ông ăn xin lúc ấy vui vô cùng. Có lẽ trong đời hành khất của ông mấy khi được người ta cho với sự kính trọng như thế.

Đấy cũng là một cách thí niềm vui rất đẹp, khiến người thọ nhận cảm thấy mình vẫn còn đầy đủ nhân phẩm. (


171. TU SAO CHO KỊP

Có người hỏi Bác Hai:

– Sấm Giảng có câu: “Đời cùng tu gấp kịp thì”. Vậy tu gấp là tu thế nào cho kịp?

Bác đáp:

– Các hoàn cảnh thuận, nghịch đến mình đều ứng xử đẹp là tu kịp. (

(


LỜI CUỐI

Con tằm đã nhả rốt đường tơ để trả nợ dâu. Nó không ước vọng gì, chỉ muốn nghỉ yên trong kén.

Dù dở, dù hay xin quý vị hãy quét gom "CẶN BÃ" lại đem bón dưới những khómhoa giúp sức cho các nụ đua nhau bừng nở trong khắp vườn hoa đạo:

"Cho hương đạo thắm,

Cho màu đạo tươi!"

Bấy giờ quý vị lần lượt nhặt những bông hoa diễm lệ, kết thành tràng hoa lộng lẫy, để trang nghiêm ngày lễ hội.

Xin đừng ai ngó ngàng đến CẶN BÃ, cứ để nó tự phân hóa và hòa mình biến nhập vào lòng đất lạnh.

Thế là xong! Nó đã hoàn thành chức năng thấp thỏi của mình trong một giai đoạn luân hồi!

          Cuối đông 1998

          NHƯ SANH











          Sự thế trả về cho cuộc thế

          Cửa Không chỉ giữ tấm lòng Không

Như Sanh


Page last modified on March 03, 2017, at 08:18 AM