21. Diệu Thiện Trị Bệnh Cho Vua, Từ Tạ Trở Về Hương Tích Sơn
Hai quan đại thần Triệu Chấn, Lưu Khâm vâng lệnh vua đến chốn sơn lâm xa xôi, tìm kiếm đền chùa, nơi có vị tiên nhân ẩn náo. Vừa đi vừa hỏi, hai người đã tìm được đúng nơi muốn tìm. Gặp được vị tiên nhân, hai người trình tờ chiếu vua ban, vừa cảm thấy lo lắng bởi những điều cầu xin thật quá khác thường. Nhưng thật không ngờ, sau khi xem xong chiếu vua, vị tiên nhân không tỏ vẻ kinh ngạc, Ngài còn bình tĩnh bảo hai quan cứ thực hiện theo lệnh : “Hãy đến chặt lấy cánh tay bên trái và móc lấy mắt của ta đem về cho vua trị bệnh ngay cho sớm sủa”. Lưu Khâm bước đến gần kế vị tiên nhân, tay cầm dao bén ngót đưa lên, nhưng không dám hạ thủ. Người đứng yên tay run run. Vị tiên nhân giục bảo mấy lần, Lưu Khâm mới dám ra tay. Cánh tay bị chặt đứt rời, máu chảy ròng ròng. Tròng mắt vừa khoét xong được cất giữ vào hộp cẩn thận. Triệu Chấn, Lưu Khâm lễ tạ vị tiên nhân cùng nhau lên ngựa trở về không dám chậm trễ.
Về đến triều đình cả hai tức tốc vào đến nơi vua đang ở, ôm tay đem mắt của vị tiên nhân trình dâng lên cho hoàng hậu. Nhìn cánh tay trắng xanh hãy còn tươi máu hồng, hoàng hậu lạ lùng lẩm bẩm: “Sao trông giống cánh tay của công chúa Ba, con gái út của ta quá chừng!” Bỗng dưng như có một sự linh cảm đồng điệu hoàng hậu nhớ đến công chúa Diệu Thiện mà hai hàng nước mắt tuôn rơi không cầm được. Vua chạnh lòng lên tiếng an ủi: “Khanh chớ có bi luỵ như thế thiên hạ thiếu gì người giống nhau”. Hoàng hậu chỉ ra cho vua thấy điều nhận xét của mình không phải là vô căn cứ: “Tâu bệ hạ, tôi nói chẳng sai đâu. Tôi đã nhận ra dấu hiệu trước sau tỏ tường. Ngài có nhìn thấy nốt ruồi ngay chính giữa Hổ quan không? Chính đó là con gái Diệu Thiện của chúng ta! Ngài còn chưa nhận ra ư ? Nếu như người dưng nước lã, ai có thể chặt tay của mình cho người khác? Chỉ có tình thâm cốt nhục mới có thể hy sinh đến vậy”.
Vua không quan tâm đến lời nói của hoàng hậu bởi cơn đau hành hạ, Ngài ra lệnh: “Hai khanh hãy đem tay mắt vào ngay cho lão tăng luyện thuốc cho ta chớ có chần chừ! Hoà thượng tiếp nhận tay mắt rồi luyện ngay được một liều thuốc cao, dâng lên cho vua: “Xin bệ hạ hãy xoa bôi vào bên tả, bệnh sẽ lành ngay không còn đau đớn nữa”. Vua trao cho hoàng hậu làm theo lời của hoà thượng phúc chốc những vết lở loét trên người, trên mặt trên nửa thân hình bên trái của vua lành lặn như chưa hề bị bệnh bao giờ. Thế nhưng nửa người bên phải của vua thì chứng bệnh lạ vẫn còn nguyên có lẽ là hết thuốc chăng? Hay là hoà thượng muốn cho vua Trang Vương thấy được sự linh ứng, mầu nhiệm của phép Phật? Bấy giờ vua đã thật sự tin tưởng hòa thượng. Ngài hỏi hoà thượng có cách gì cho Ngài khỏi bệnh ngay.
Hòa thượng đáp: “ Tâu bệ hạ, chứng bệnh lạ thường là chứng bệnh nghiệp chướng nặng nề tạo nên. Vậy nên cách trị bệnh cũng khác thường, chỉ có công đức sâu dày của người thân hồi hướng cho mình thì căn bệnh kia mới chữa khỏi được. Tiên nhân đã cho tay, mắt bên trái nên bệ hạ đã trị được những đau đớn một nửa thân hình. Còn một nửa bên phải thì phải lên xin vị tiên nhân ấy bố thí phần tay , mắt bên phải của Người, mới có thể trị dứt hẳn toàn thể căn bệnh quái ác này”.
Vua nhìn hòa thượng vô cùng tin tưởng nhưng ông còn đắn đo e ngại: “Con người ta ai cũng có hai mắt hai tay. Vị tiên nhân từ bi đã cho ta một nửa lẽ đâu ta lại xin hết phần còn lại của người, rồi làm sao người sống nổi. Hoà thượng mỉm cười trấn an nhà vua: “Tâu bệ hạ, tuy khó khăn nhưng mọi việc đâu đó cũng đã xong rồi bởi tiên nhân đã tu hành đắc đạo . Lòng từ bi của người vô hạn , dẫu cho ta có xin hết chắc người cũng đồng ý, có như thế mới hoàn thành đại nguyện cứu độ chúng sinh của người. Vả lại, bệnh của người chỉ có dùng thuốc ấy mới khỏi được mà thôi”.
Bấy giờ vua Trang Vương mới cho gọi Lưu Khâm đến. Hai quan đại thần phụng mệnh đi đến Hương Sơn một lần nữa .Hai vị cầm chiếu chỉ của vua trình lên tiên nhân, lời lẽ trong chiếu chỉ rất ân cần khiêm nhường : “Ta đã được người cho một phần thân thể của người để trị xong một nửa chứng bệnh nan y của ta. Nay ta cần phần còn lại của người mới có thể trị dứt căn bệnh nghiệp chướng này. Xin người hãy mở lòng đại từ bi lần nữa bố thí cho ta phần tay, mắt bên phải của người. Để đền ơn sâu nghĩa nặng đó, ta sẽ lập đền thờ người. Cả nứơc sẽ hương khói cho người mãi mãi…”.
Chúa Ba nghe trong lời chiếu chỉ của vua cha khá chân tình tha thiết. Ngài bảo Thiện Tài hóa làm hình tiên nhân. Lưu Khâm cầm đao chực sẵn để chờ lệnh. Không để cho quan cận thần phải đợi lâu Ngài bảo: “Xin người hãy mau chóng lấy phần tay, phần mắt bên phải để về chữa bệnh cho vua kịp thời.”. Lại một phần thân thể của tiên nhân bị cắt ra, máu chảy chan hòa ai thấy cũng thương tâm. Tiên nhân vẫn nghiêm sắc mặt không tỏ vẻ đau đớn, bình thản bảo với Lưu Khâm: “Ta khen cho vị hoà thượng đã bào chế ra thứ thuốc này. Đức vua thật hữu duyên gặp đúng thầy đúng thuốc sẽ chữa được ngọc thể .Không cần phải lo cho ta các vị hãy về ngay đi”. Lưu Khâm không dám cãi lời, tức tốc phi ngựa trở lại hoàng cung, vào ngay điện rồng nộp cho hoàng thượng.
Vua Trang Vương cho mời hoà thượng vào trong để luyện thuốc. Hoà thượng vâng lệnh vua, một mình một phòng bào chế luyện thuốc cho vua kịp điều trị căn bệnh quái ác kia. Thuốc vừa luyện xong, hoà thượng dâng ngay cho vua dùng. Thật là như có phép thần thông phút chốc mặt rồng tươi tốt, hồng hào hơn ngày xưa. Những vét lở loét xanh xao biến mất không còn đau đớn nữa. Thuốc thiêng linh nghiệm lạ thường, cả triều đình bàn tán khen ngợi xôn xao. Vua cho bày yến tiệc để ăn mừng đàn hát. Mọi người đều vui vẻ kéo đến mừng vua đã thoát khỏi chứng bệnh lạ thường ấy. Vua Trang Vương cho người đến đón hoà thượng thật long trọng. Trăm quan y chiếu theo đúng nghi lễ đến rước hoà thượng và vua tuyên chiếu nhường ngôi như đã hứa.
Hoà thượng trước sự hậu đãi ân cần của cả triều đình vẫn ung dung nét mặt, tự tại bình thản lạy từ vua để quay gót: “Tâu bệ hạ, tôi vốn người đã xuất gia .Tính quen non nước, thú vui tháng ngày trong chốn rừng sâu núi thẫm. Xin bệ hạ chớ bận lòng báo đáp. Dám khuyên bệ hạ từ nay hãy mở lòng nhân đức để cai trị muôn dân, học hạnh từ bi của Chư Phật để tu thân. Xin các quan văn quan võ của triều đình hãy hết lòng giúp vua lo cho nước ngày thêm cường thịnh, xứng đáng là vị tôi trung. Tiểu tăng là người tu hành đã thoát khỏi chốn bụi hồng, không có mong cầu chi về danh lợi cũng không mong đợi việc nhường ngôi của bệ hạ. Xin bệ hạ hãy an lòng ổn định giang sơn”. Nói xong hoà thượng từ tạ lên đường. Trăm quan vội vàng theo sau đưa tiễn. Trong sương sớm dần tan, linh khí của núi rừng huyền ảo, hòa thượng biến mất tự bao giờ không ai rõ, chỉ thấy trên trời cao có một tờ giấy thơm có ghi bốn câu kệ rơi xuống như một lời từ tạ:
Ngô nãi tây phương nhất Thế Tôn
Đặc lai cứu nhĩ bệnh trừ côn
Tòng kim chính đạo vô tà sắc
Mạc sử linh chân nhiễm tục hồn.
Các quan văn võ đón lấy , kính cẫn đọc và dịch nghĩa bốn câu kệ cho mọi người nghe:
Ta vốn tây phương nhất Thế Tôn
Đến đây trị bệnh diệt trừ căn
Từ nay chính đạo không tà sắc
Chớ để linh chân nhiễm tục trần
Như hiểu ra, tất cả mọi người đều sụp quì xuống hướng lên thinh không bái tạ kính cẩn trước khi quay về.