Main.KinhTụng1 History

Show minor edits - Show changes to markup - Cancel

Added line 4:
Added line 6:
Added line 8:
Added line 10:
Added line 23:
Added line 25:
Added line 27:
Added line 29:
Added line 31:
Added line 33:
Added line 35:
Added line 37:
Added line 39:
Added line 41:
Changed lines 54-55 from:

1. NGUYỆN HƯƠNG

to:

1. NGUYỆN HƯƠNG

Added line 57:
Changed lines 90-91 from:

2. TÁN THÁN PHẬT

to:

2. TÁN THÁN PHẬT

Changed lines 111-112 from:

3. LỄ PHẬT

to:

3. LỄ PHẬT

Changed lines 118-119 from:

4. TỤNG KINH

to:

4. TỤNG KINH

Added line 123:
Changed line 775 from:

Đạo nhiệm mầu vô thuợng.

to:

Đạo nhiệm mầu vô thuợng.

April 25, 2018, at 04:41 AM by 171.232.60.32 -
Added lines 1-755:

MỤC LỤC KINH TỤNG 1

LỜI NÓI ĐẦU NGHI THỨC TỤNG KINH KINH SỐNG HÒA HỢP KINH TỪ TÂM KINH HẠNH NGƯỜI XUẤT GIA

LỜI NÓI ĐẦU

Cuốn “Những Bài Kinh Tụng” này giới thiệu ba bài kinh lấy từ Kinh Tạng Nikaya. Đó là: Tiểu Kinh Rừng Sừng Bò (Trung Bộ kinh) được đổi tựa thành kinh Sống Hòa Hợp. Kinh Từ (Tăng Chi Bộ kinh) đặt là kinh Từ Tâm. Một đoạn nói về hạnh của người Xuất gia trong nhiều bài kinh Trường Bộ và Trung Bộ được đặt là Kinh Hạnh Người Xuất Gia. Từ văn xuôi, chúng tôi chuyển thành văn vần năm chữ hoặc sáu tám để dễ đọc tụng. Trong Kinh Sống Hòa Hợp, đời sống thanh tịnh hòa hợp của ba Tôn giả Anuruddha, Nadiya và Kimbila được giới thiệu và tán thán. Đức Phật ấn chứng rằng ai nghe đến tên của ba tôn giả Alahán sống hòa hợp này sẽ được nhiều công đức lành. Kinh Từ Tâm nói về ý nghĩa tâm Từ ban rãi khắp chúng sinh. Công đức phát sinh từ việc tu tập Từ tâm rất lớn lao và sẽ đưa đến giải thoát. Kinh Hạnh Người Xuất gia diễn tả công hạnh của một người bắt đầu phát tâm tu hành, xuất gia và các giai đoạn phải trải qua để cuối cùng chứng được đạo quả. Đây là một mẫu mực tiêu chuẩn lý tưởng mà người đệ tử xuất gi ủa Phật phải nắm vững. Chúng tôi có viết phần Tiểu Luận để giải thích thêm ý nghĩa bài kinh này. Nhưng phần Tiểu Luận đó chỉ phổ biến trong người xuất gia, không in kèm theo đây. Ngoài ra, chúng tôi có đưa vào “Lời Khấn Nguyện” để làm bài kinh tụng ngắn cho những người ít thời gian. Lời Khấn Nguyện giúp huân tập các Tâm Hạnh Đạo Đức căn bản cho người tu Phật để hổ trợ cho sự ổn định khi người tu được nhiều tiến bộ không bị các tâm kiêu mạn... phá vỡ công đức. Chúng tôi cũng đưa thêm nghi thức Lễ Phật với những lời tụng cần thiết để cho người lễ Phật có được tác ý tôn kính Phật khi hiểu được những tính chất vô cùng vĩ đại của Đức Phật. Chúng tôi cũng có đưa vào “Nghi Thức Cầu Siêu” để cầu nguyện cho các hương linh được gặp Phật Pháp tu hành, xa lìa các đường ác, sinh về cõi an lành. Bên cạnh đó còn có “Nghi Thức Cúng Thí Thực” để mọi người dùng làm nghi thức cúng thí thực, trong đây chủ yếu sử dụng tâm thành của người cúng và sự gia hộ của Tam Bảo, với những lời khuyên trên căn bản đạo lý giúp cho các hương linh được no đủ và được chuyển hóa tâm hồn để có thái độ tốt đối với con người và tiến đến siêu thoát. Trên đây là những bài kinh với vài ý nghĩa nhỏ bé, được xem như là một đóng góp ít ỏi vào việc Việt hóa kinh tụng của Đạo Phật Việt Nam. Nguyện mười phương chúng sanh đều thành Phật đạo. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính ghi Tỳ kheo Thích Chơn Quang

NGHI THỨC TỤNG KINH

1. NGUYỆN HƯƠNG (Chủ lễ đốt 3 cây hương quỳ trước bàn Phật nguyện) Nguyện đem lòng thành kính Gửi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam bảo Thề trọn đời giữ đạo Theo tự tánh làm lành Cùng pháp giới chúng sanh Cầu Phật từ gia hộ Tâm bồ đề kiên cố Xa bể khổ nguồn mê Chóng quay về bờ giác. (xá 3 xá rồi đọc bài kỳ nguyện)

KỲ NGUYỆN (Đọc thầm) Hôm nay chúng đệ tử trì tụng kinh ............ nguyện mười phương Chư Phật từ bi gia hộ............ tội diệt, phước sanh, thiện căn tăng trưởng, Bồ Đề tâm kiên cố, tinh tấn tu hành, cùng pháp giới chúng sanh đều trọn thành Phật đạo. (Đọc tiếp bài niệm hương)

NIỆM HƯƠNG Giới hương, định hương, dữ huệ hương Giải thoát, giải thoát, tri kiến hương Quang minh vân đài biến pháp giới Cúng dường thập phương Tam Bảo tiền (Đứng dậy cắm hương lên lư rồi chắp tay đứng thẳng, tụng bài tán Phật)

2. TÁN THÁN PHẬT

(Đứng chắp tay)

Đấng Pháp vương vô thượng B õi chẳng ai bằng Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loại Nay con nguyện quy y Diệt trừ vô lượng tội Dâng lên lời tán thán Ức kiếp vẫn không cùng. Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn. Lưới đe hâu ví đạo tràng Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời. Trước bảo tòa thân con ảnh hiện Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

3. LỄ PHẬT

( Hoặc theo nghi thức Bắc tông với danh hiệu cụ thể của một số Phật, Bồ Tát). Chí tâm đảnh lễ: Nam mô khắp mười phương hư không tất cả chư Phật. (1 lễ) Chí tâm đảnh lễ: Nam mô khắp mười phương hư không tất cả chánh Pháp. (1 lễ) Chí tâm đảnh lễ: Nam mô khắp mười phương hư không tất cả Hiền Thánh Tăng. (1 lễ)

4. TỤNG KINH

(Đứng hoặc ngồi thành hai bên đối diện nhau)

Khai kinh: Pháp vi diệu rất sâu vô lượng Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Con nay nghe được xin trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

KINH SỐNG HÒA HỢP

Tôi từng nghe như vầy Có một thời Thế Tôn Ở tại Na-di-ka đi đến thăm khu rừng trồng nhiều cây Tala tên gọi Go-sin-ga Ở đó có ba thầy Thầy A-nu-rud-dha với thầy Nan-di-ya và thầy Kim-bi-la đang cùng sống chung nhau tu tập trong an lành Thấy Thế Tôn từ xa ba thầy lo tiếp đón người đỡ lấy y bát người sửa soạn chỗ ngồi người đem nước rử hân. Rồi đảnh lễ cung kính xong, ngồi xuống một bên. Thế Tôn mở lời hỏi: – Này, các Thầy Tỳ kheo Cuộc sống ở nơi đây an lành, yên vui chăng ? hằng ngày đi khất thực có mệt nhọc lắm chăng ? Các Thầy đã sống chung có thật sự hòa hợp như thể nước với sữa, lòng hoan hỉ tràn đầy không hề tranh cãi chăng ? Khi nghe hỏi như vậy, ba Thầy đã thưa rằng: – Kính Bạch Đức Thế Tôn! Thật sự là như vậy. Chúng con sống an lành Cảm thấy rất yên vui Đi khất thực dễ dàng Chúng con rất hòa hợp nói lời thuận thảo nhau tràn đầy niềm hoan hỉ. Thế Tôn khen, hỏi tiếp : – Các Thầy bằng cách nào thực hiện đời sống ấy ? – Kính Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con hiểu được rằng "Thật vô cùng lợi ích khi Chúng con sống chung với bạn đồng phạm hạn nên xử sự với nhau dù trước mặt, sau lưng vẫn một mực tốt đẹp vẫn một niềm quý trọng ở trong từng việc làm ở trong từng lời nói ngay cả trong suy nghĩ. Kính Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con đã thật sự từ bỏ tâm ý mình để sống tùy thuận theo tâm của bạn đồng tu. Vì thực hiện như thế Chúng con tuy khác thân mà tâm vẫn tương đồng. Do "khác thân, giống tâm" nên chúng con nhìn nhau trong ánh mắt thiện cảm vui sống ở bên nhau không một lời tranh cãi như nước sữa hợp hòa – Này các Thầy Tỳ kheo Đời sống củ ác Thầy có nhiệt tâm, tinh cần không hề phóng dật chăng? – Kính Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con sống như sau Ai khất thực về trước lo soạn sẵn nước uống soạn cả nước rử hân bớt phần ăn của mình dành cho người về muộn. Ai khất thực về sau có thể dùng, nếu cần sau đó, sẽ xếp dọn mọi thứ cho gọn gàng Khi cần được giúp đỡ Chúng con chỉ đưa tay ra hiệu chứ không nói Lời nói chỉ được dùng đàm luận chuyện đạo pháp vào những lúc thích hợp nhằm chia xẻ cho nhau điều chúng con tu tập Thế Tôn hết lời khen, tiếp tục hỏi các Thầy – Này các Thầy Tỳ kheo Các Thầy có thể nào chứng được pháp cao thượng được tri kiến Thánh nhân được thoải mái an lạc với cuộc sống như thế ? – Kính Bạch Đức Thế Tôn! Nếu như chúng con muốn Chúng con sẽ nhiếp tâm lìa x ác ham muốn lìa x ác vọng tưởng không khởi Tham Sân Si để trú thiền thứ nhất. Đó là tâm an ổn với hỉ được phát sinh dùng chút ý nhỏ nhiệm thường hằng kiểm soát tâm – Kính Bạch Đức Thế Tôn! Nếu như chúng con muốn lúc chúng con nhiếp tâm ý thức củ húng con sẽ đạt đến bất động để trú thiền thứ hai Đó là tâm an định với hỉ lạc phát sinh dù không còn kiểm soát tâm ý chẳng lung lay. – Kính Bạch Đức Thế Tôn! Nếu như chúng con muốn Chúng con sẽ nhiếp tâm để trú thiền thứ ba. Đó là tâm thanh tịnh với an lạc vi diệu và tỉnh giác hoàn toàn sâu vào trong chánh định tâm sở đắc tan biến – Kính Bạch Đức Thế Tôn! Nếu như chúng con muốn chúng con sẽ nhiếp tâm vượt các lớp tâm thức để trú thiền thứ tư. Đó là một trạng thái đã bất động hoàn toàn không cảm thọ khổ vui và vô cùng sáng suốt. – Kính Bạch Đức Thế Tôn! Nếu như chúng con muốn chúng con hướng tâm về hư không rộng vô biên với tâm rộng vô lượng không chi phối bởi Tưởng để trú định thứ nhất là Không vô biên xứ. – Kính Bạch Đức Thế Tôn! Nếu như chúng con muốn chúng con trãi cái biết phủ trùm không bến bờ để trú định thứ hai là Thức vô biên xứ. – Kính Bạch Đức Thế Tôn! Nếu như chúng con muốn tâm lượng càng rộng mở vượt thoát mọi đối tượng sai biệt trong pháp giới thấy rõ “không có gì ” để trú định thứ ba là Vô sở hữu xứ – Kính Bạch Đức Thế Tôn! Nếu như chúng con muốn chúng con vượt ra khỏi vô sở hữu xứ định dùng tâm vô lượng ấy thấy biết cả pháp giới để trú định thứ tư Phi tưởng phi phi tưởng – Kính Bạch Đức Thế Tôn! Nếu như chúng con muốn chúng con sẽ tiếp tục an trú Diệt tận định thể tích lặng tuyệt đối Từ đó, với Trí tuệ thấy biết đúng như thật mà đoạn trừ vô minh – Kính Bạch Đức Thế Tôn! Đó là hạnh phúc lớn là an trú tối thượng chúng con cùng thành tựu không thấy hạnh phúc nào bằng hạnh phúc ấy cả – Này các Thầy Tỳ kheo Các Thầy đã thật sự có hạnh phúc tuyệt vời đã biết sống hòa hợp giữa huynh đệ với nhau Sau khi đã ngợi khen Đức Thế Tôn ra về Các Thầy ngồi quanh nhau Thầy A-nu-Rud-dha lên tiếng rằng: – Chẳng ai nói về điều sở đắc về quả vị chứng đạt nhưng tâm tôi vẫn biết tâm huynh đệ như thế mà bạch cùng Thế Tôn mọi chuyện Rất Rõ Ràng Lúc đó, có Dạ xoa tên Pa-Ra-Fa-Na đến chỗ Thế Tôn ở đảnh lễ và tán thán sự có mặt của Người cùng với các Thầy đây đem hạnh phúc lợi ích cho dân chúng Vaj-ji Đồng thời, các cõi Trời cùng chung nhau ca ngợi Thế Tôn và các Thầy Thế Tôn bảo Dạ xoa: – Này Di-gha hãy nhớ nếu ai trong loài Trời cũng như trong loài Người nhớ đến ba Thầy đây với tâm niệm hoan hỉ với tâm niệm cung kính là tạo công đức lớn Người đó sẽ an lạc sẽ hạnh phúc lâu dài Hãy nhìn xem ba Thầy đã sống như thế nào để thể hiện trọn vẹn “lòng thương tưởng chúng sanh vì an lạc, hạnh phúc loài Trời và loài Người” Được Thế Tôn chỉ dạy Dạ xoa rất vui mừng tin nhận và làm theo cuộc sống khéo hòa hợp gương mẫu nhất trên đời. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần) Không truy tìm quá khứ Không ước vọng tương lai Quá khứ đã qua rồi Tương lai lại chưa đến Chỉ có pháp hiện tại Tuệ quán chính là đây Bất động chẳng lung lay Hãy thực hành như thế Không một ai biết trước Cái chết đến lúc nào Tử thần có đợi đâu Làm sao điều đình được

Vì thế nên nỗ lực Tinh tấn suốt đêm ngày Tỉnh giác từng phút giây An trú bằng chánh niệm

Như vậy mới xứng đáng Người biết sống một mình Kẻ ấy đã tôn vinh Đạo nhiệm mầu vô thuợng.

|

KINH TỪ TÂM

Tôi từng nghe kể như vầy Một thời, Xá vệ, tại ngay Kỳ Hoàn Thế Tôn cho gọi chúng tăng Các Thầy cung kính, “Thưa vâng” đáp lời Thế Tôn dạy chuyên ở đời Liên quan tu tập nên người Từ Tâm Là người rất đỗi ân cần Thương yêu trải khắp kẻ gần người xa Tấm lòng nhân ái bao la Thật là thuần khiết, thật là cao thâm Hướng về tất cả chúng sanh Người Từ Tâm trọn quên mình mà thương Không vì ái luyến vấn vương Không vì mong đợi chút đường lợi danh Không vì ân nghĩa riêng dành Không vì cân nhắc với mình lạ quen Thương người quen lẽ tất nhiên Cũng thương những kẻ chưa quen bao giờ Xóa đi ngăn cách lạ xa Xóa đi ngần ngại hững hờ bấy lâu Tình thương lan tỏa đến đâu Giúp xây nơi ấy nhịp cầu cảm thông Người Từ Tâm đủ bao dung Đủ lòng độ lượng, đủ lòng thương yêu Với người mưu hại đủ điều Bất nhân, ác cảm, gây bao hận thù Người Từ Tâm trước như sau Trải lòng ra mãi, đậm sâu thương người Với người oán ghét bao đời Nguồn thương yêu ấy làm vơi tị hiềm Chuyện không hay chẳng trách phiền Cho vơi bớt những nghiêp duyên với người Người Từ Tâm trước muôn loài Đem lòng thương xót cảnh đời không may Thương người sống kiếp đọa đày Làm thân cầm thú nghiệp gây chẳng lành Hoặc loài ngạ quỷ vô hình Hoặc trong địa ngục, tội tình vương mang Từ Tâm như ánh trăng ngàn Dịu dàng soi thấu mọi đường trầm luân Ở đâu có chúng hữu tình Thì nơi ấy có Từ Tâm hướng về Như tàng lá mát rộng che Chúng sanh vô lượng Tâm Từ vô biên Tâm Từ như suối triền miên Thấm vào mạch sống mọi niềm an vui Tâm Từ làm gốc vun bồi Cho người cao thượng cho đời thăng hoa Thấy người khổ nạn khó qua Lòng mình đau xót như là khổ chung Thấy người hạnh phúc thành công Lòng mình vui sướng như cùng vui theo Thấy người lầm lỗi ít nhiều Lòng mình tha thứ mến trìu càng hơn Người Từ Tâm sống vẹn tròn Thương yêu bình đẳng sắt son bền lòng Cho dù không ước không mong Phước lành tự đến do công đức thành Một là ngủ được an lành Bởi lòng mình đã chân thành thương yêu Bởi không lừa lọc dệt thêu Bởi không toan tính lắm điều chua ngoa Tâm mình không gợn xấu xa Tham lam, sân hận, si mê mịt mờ Đầu hôm đến lúc tinh mơ Khổ ưu lặng tắt, thới thơ giấc nồng Hai là rời bước khỏi giường Lòng mình một mực bình thường yên vui Khi đi đứng, lúc nằm ngồi Không còn tiếc nhớ, đua đòi, ước ao Từ Tâm hóa giải đẹp sao Muộn phiền, sân hận tan vào hư không Lòng mình luôn giữ trắng trong Nguồn an lạc trải tựa đồng bao la Ba là từ ái lan xa Làm cho cảm ứng chan hòa rộng theo Ai ai cũng thấy mến yêu Đem lòng ngưỡng mộ người nêu Tâm Từ Bốn là loài chẳng phải người Một khi cảm nhận biết người Từ Tâm Cũng dành cho những tình thâm Hộ trì người được những thành tựu vui Năm là Thiên chúng cõi Trời Xưa kia tu tập nên người Từ Tâm Thấy người nào tính ai lân Nay theo gia hộ để cùng tiến tu Sáu là hiểm nạn đang chờ Dầu sôi lửa bỏng mịt mờ kiếm cung Cùng bao nhiêu thứ độc trùng Không sao xâm phạm đến vùng trú thân Bảy do huân tập Từ Tâm Thác sanh Phạm chúng làm dân cõi Trời Được nhiều phước báo tuyệt vời Và Tâm Từ được trau dồi hơn thêm Tám là đầy đủ thiện duyên Người Từ Tâm biết thường xuyên chuyên cần Làm cho đức hạnh được thuần Thành vườn ruộng tốt gieo trồng Đại Bi Đượm nhuần vô ngã vô si Con đường giải thoát bước đi thêm gần Khéo an trú, khéo tác thành Thân tâm an ổn, vững vàng lắng sâu Tâm Từ khi được khéo tu Làm cho kiết sử bị mau yếu dần Không còn dấu vết tham sân Niết Bàn hiển lộ thênh thang giữa đời Thế Tôn thuyết giảng mấy lời Các Thầy vui nhận, tin, rồi làm theo Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật (3 lần)

Không truy tìm quá khứ Không ước vọng tương lai Quá khứ đã qua rồi Tương lai lại chưa đến

Chỉ có pháp hiện tại Tuệ quán chính là đây Bất động chẳng lung lay Hãy thực hành như thế

Không một ai biết trước Cái chết đến lúc nào Tử thần có đợi đâu Làm sao điều đình được

Vì thế nên nỗ lực Tinh tấn suốt đêm ngày Tỉnh giác từng phút giây An trú bằng chánh niệm

Như vậy mới xứng đáng Người biết sống một mình Kẻ ấy đã tôn vinh Đạo nhiệm mầu vô thuợng.

|

KINH HẠNH NGƯỜI XUẤT GIA

Tôi đã nghe như vầy Giữa thế gian triền phược Đức Như Lai ra đời là bậc A La Hán là vị Phật Thế Tôn sau khi đã chứng ngộ Ngài tuyên giảng con đường đưa đến bờ giải thoát Rồi một người Cư sĩ dù thuộc giai cấp nào sau khi nghe pháp ấy khởi lên lòng kính ngưỡng đối với Đức Như Lai tự nghĩ sống ở đời đầy những điều ràng buộc bụi bặm và khổ đau khó thể nào đạt được hạnh thanh tịnh hoàn toàn trắng trong như vỏ ốc chỉ đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không mới có thể giúp ta đến bến bờ giải thoát Rồi vị ấy từ bỏ tài sản và gia đình khoác ca-s ạo tóc làm một vị Sa-môn Sau khi đã xuất gia vị ấy sống chế ngự bằng giới bổn Mộc-xoa (Mokkha) đủ oai nghi chánh hạnh Vị ấy THẤY NGUY HIỂM TRONG TỪNG LỖI NHỎ NHẶT lời nói và việc làm luôn giữ gìn thanh tịnh, thủ hộ các giác quan không đắm nhiễm bên ngoài, sống cuộc đời thanh bai giản đơn và tri túc. Thế nào là Tỳ kheo có giới hạnh cụ túc ? Đó là một Tỳ kheo đã từ bỏ sát sanh xa lì ác vũ khí và thương yêu tất cả

Đó là vị Tỳ kheo đã từ bỏ gian tham không trộm cắp của người không mong nhiều sở hữu Đó là vị Tỳ kheo đã xa lìa tính dục Phạm hạnh được giữ gìn trắng trong và trọn vẹn Đó là vị Tỳ kheo tránh xa sự nói dối chỉ nói bằng sự thật cho những người đáng nghe Không nói lời chia rẻ làm thù hận phát sinh chỉ nói lời hòa vui để yêu thương xuất hiện Vị ấy không bao giờ nói lên lời ác độc chỉ nói lời từ ái tao nhã đẹp lòng người Vị ấy cũng tránh xa những lời nói khoe khoang hơn thua và hiếu thắng để gìn giữ khiêm cung Đó là vị Tỳ kheo biết tôn trọng cỏ cây biết giữ gìn sự sống của tất cả mọi loài Không ăn uống phi thời không dự xem nhạc kịch Từ bỏ các vòng hoa hương thơm và vàng bạc Vị ấy cũng khước từ chăn nuôi và buôn bán tôi tớ và đất đai tham lam hay lừa đảo Vị Tỳ kheo như thế Tâm bình thản an vui không ăn năn lo sợ vì không phạm lỗi lầm Rồi vị Tỳ kheo ấy gìn giữ các giác quan không đắm theo ngoại cảnh dù ít hay là nhiều Vị ấy luôn tự xét từ một nguyên nhân nào khiến tâm chìm theo cảnh để mà tự khắc phục Vị Tỳ kheo như thế Tâm tự tại an vui không tối tăm vẩn đục vì không nhiễm thế trần Rồi vị Tỳ kheo ấy khi đi tới, đi lui khi nhìn quanh, nhìn thẳng đều rõ ràng tỉnh giác thường hằng kiểm soát tâm khi co tay, duỗi tay khi đắp y, mang bát đều rõ ràng tỉnh giác thường hằng kiểm soát tâm khi uống ăn nhai nuốt khi đi đứng nằm ngồi khi lặng yên, lên tiếng đều rõ ràng tỉnh giác thường hằng kiểm soát tâm Từ bao nhiêu công hạnh của một người xuất gia như giữ gìn giới luật sống đời sống giản đơn thủ hộ các giác quan và tinh tấn chánh niệm Vị Tỳ kheo như thế sẽ tìm chốn hoang vu như gốc cây, khe suối hoặc hang núi, chòi tranh ngồi như một đóa sen thẳng lưng và bất động với chánh niệm rạng ngời rõ ràng ngay trước mắt Rồi từ một nội tâm sáng trong và yên tĩnh tham ái được diệt trừ sân hận được vượt qua lòng Từ mẫn bao la thương yêu cho tất cả Rồi từ một nội tâm sáng trong và yên tĩnh nên hôn trầm, trạo hối và do dự lìa xa Như một người thoát ra khỏi gông cùm xiềng xích như một người vượt qua khỏi sa mạc khô khan gặp dòng sông nước mát cũng vậy, Tỳ kheo ấy diệt Năm Triền cái rồi được hân hoan hạnh phúc Từ niềm hân hoan trên Tâm càng thêm định tĩnh Bất thiện pháp xa lìa Sơ thiền được chứng đạt Đó là một trạng thái tham dục được vượt qua nên hỷ lạc tràn đầy dù vẫn còn niệm tế Không tự mãn Sơ thiền Tỳ kheo ấy nhiếp tâm diệt trừ niệm vi tế và chứng đạt Nhị thiền Đó là một trạng thái hỷ lạc do định sanh rất thênh thang mầu nhiệm Tâm cực kỳ yên tĩnh Không tự mãn Nhị thiền Tỳ kheo ấy nhiếp tâm dừng hoạt động giác quan để chứng đạt Tam thiền Đó là một trạng thái vào chánh định rất sâu với an lạc vi diệu tận cùng không bờ bến. Không tự mãn Tam thiền Tỳ kheo ấy nhiếp tâm trừ mọi cảm thọ trước để chứng đạt Tứ thiền Đó là một trạng thái đã bất động hoàn toàn không cảm thọ khổ vui và vô cùng sáng suốt. Rồi từ một nội tâm đã bất động hoàn toàn Tỳ kheo ấy hướng tâm nhớ về vô lượng kiếp qua từng chỗ thọ sanh với giai cấp, dòng họ khổ vui và tên tuổi rất chi tiết rõ ràng và như vậy, Vị ấy thành tựu Túc Mạng Minh Rồi từ một nội tâm đã bất động hoàn toàn Tỳ kheo ấy hướng tâm xem chúng sanh lưu chuyển qua mỗi kiếp luân hồi nhận quả báo khổ vui theo nghiệp duyên thiện ác không một chút sai lầm và như vậy, Vị ấy thành tựu Thiên Nhãn Minh Rồi từ một nội tâm đã bất động hoàn toàn Trí tuệ được khởi lên vô minh được chấm dứt Vị ấy biết rõ ràng như thế nào là KHỔ hay NGUYÊN NHÂN CỦA KHỔ thế nào là GIẢI THOÁT và ĐƯỜNG VỀ GIẢI THOÁT và như vậy, Vị ấy chứng đạt Lậu Tận Minh Từ chánh trí như trên Vị ấy tự biết mình đã dừng lại Luân hồi đã viên thành Phạm hạnh đã hoàn toàn Giải Thoát. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần) Không truy tìm quá khứ Không ước vọng tương lai Quá khứ đã qua rồi Tương lai lại chưa đến Chỉ có pháp hiện tại Tuệ quán chính là đây Bất động chẳng lung lay Hãy thực hành như thế Không một ai biết trước Cái chết đến lúc nào Tử thần có đợi đâu Làm sao điều đình được Vì thế nên nỗ lực Tinh tấn suốt đêm ngày Tỉnh giác từng phút giây An trú bằng chánh niệm Như vậy mới xứng đáng Người biết sống một mình Kẻ ấy đã tôn vinh Đạo nhiệm mầu vô thuợng.


Page last modified on April 25, 2018, at 08:41 AM